Cổ phiếu “vua” tái lập đẳng cấp
Với việc gặt hái được kết quả khả quan năm 2018 và tiếp tục đặt mục tiêu cao năm 2019, các nhà băng đang trở thành tâm điểm thu hút sự chú ý của giới đầu tư trên thị trường, nhất là khi các mức cổ tức dự kiến chia rất hấp dẫn.
Hiện có 10 cổ phiếu ngân hàng niêm yết tại HOSE
Sức mạnh được củng cố
2018 là một trong những năm hoạt động thành công nhất của ngành ngân hàng kể từ khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đến nay. Trong năm ngoái, khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại đạt mức trung bình của khu vực Đông Nam Á khi ROA (tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản) và ROE (tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu) tăng gấp đôi so với năm 2011. Cụ thể, ROA bình quân từ mức 0,56% năm 2011 tăng lên 1% năm 2018, ROE bình quân từ 6% năm 2011 lên 14% năm 2018.
Trong một phân tích mới đây, các chuyên gia của Moody’s đánh giá, hầu hết các ngân hàng Việt Nam vẫn sẽ thiếu vốn để đáp ứng các yêu cầu nghiêm ngặt của tiêu chuẩn Basel II, chuẩn bị có hiệu lực từ năm 2020. Do đó, việc huy động vốn, chủ yếu từ các nhà đầu tư nước ngoài sẽ là tâm điểm chú ý của các ngân hàng Việt trong năm 2019, nhất là khi thị trường vốn Việt Nam chưa hoàn toàn phát triển.
Tuy nhiên, Moody’s cho biết, các ngân hàng Việt được hãng này xếp hạng đã có khả năng sinh lời cao hơn nhờ chênh lệch lãi ròng tăng và chi phí tín dụng thấp hơn. Từ đó, chất lượng tài sản của các ngân hàng được cải thiện vì nhà băng sử dụng lợi nhuận để trích lập dự phòng rủi ro, xử lý nợ xấu hình thành trước đây. Cụ thể, các ngân hàng mà Moody’s xếp hạng đạt được tỷ suất sinh lợi/tổng tài sản cao hơn trong 2 năm qua, từ mức 0,9% năm 2017 lên 1,1% năm 2018. Thu nhập ròng của các nhà băng tăng 35%, đạt 70 nghìn tỷ đồng (khoảng 3 tỷ USD) năm 2018, mặc dù có sự điều chỉnh về tăng trưởng tín dụng.
“Trong năm 2019, các ngân hàng Việt được xếp hạng sẽ đạt tỷ suất sinh lợi cao hơn nữa, vẫn nhờ sự chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động ngày càng lớn, trong khi chi phí tín dụng thấp hơn”, Rebaca Tan, chuyên viên phân tích tại Moody’s cho biết.
Theo đánh giá của Công ty Chứng khoán Rồng Việt (VDSC), các ngân hàng Việt Nam có khả năng sinh lời cao hơn so với các ngân hàng ở các thị trường cận biên, với ROE trung bình ở mức 19,8% và tăng trưởng lợi nhuận trung bình 23,2% trong giai đoạn 2018 – 2020 (so với mức 15,9% của các ngân hàng ở các thị trường cận biên). Thực tế, lợi nhuận của các tổ chức tín dụng năm 2018 tăng 40 – 50% so với năm 2017, trong khi tốc độ tăng vốn có sự phân hóa khiến tỷ suất sinh lời ROE trung bình của hệ thống ngân hàng tiếp tục tăng so với năm trước đó.
Tốc độ tăng của lợi nhuận nhanh hơn tốc độ tăng của vốn giúp mặt bằng ROE bình quân đến cuối năm vừa qua đạt từ 19 – 21%. ROE năm 2018 của nhóm 6 ngân hàng: VPBank, MB, Techcombank, ACB, TPBank, Vietcombank đạt từ 19,4% đến 27,7%. Trong khi đó, VPBank là ngân hàng tư nhân có lợi nhuận cao thứ hai trong hệ thống sau Techcombank, nhưng lại xếp trên ngân hàng này về tỷ suất sinh lời với ROE năm 2018 đạt 22,8%.
Với bức tranh lợi nhuận nhiều màu sáng của các ngân hàng năm 2018, cổ phiếu ngân hàng, vốn được mệnh danh là cổ phiếu vua trở thành một trong những nhóm cổ phiếu dẫn dắt thị trường và dự báo sẽ tiếp tục dẫn dắt trong năm 2019. Số liệu của FiinPro cho thấy, cổ phiếu ngân hàng đã đạt mức tăng trưởng 3 con số trong 5 năm qua, tăng 154,1% so với mức tăng 2 con số của VN-Index là 96,5%.
Hiện có 10 cổ phiếu ngân hàng niêm yết tại Sở Giao dịch chứng khoán TP.HCM (HOSE), với tổng giá trị vốn hóa hơn 644.340 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 22%. Trong đó, có 3 ngân hàng lọt Top 10 doanh nghiệp vốn hoá lớn nhất thị trường gồm Vietcombank, BIDV và Techcombank. Nhìn rộng trong Top 20, danh sách có thể ghi thêm các tên tuổi như VietinBank, VPBank, MBBank, HDBank. Tại Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) và UPCoM, hiện có các mã cổ phiếu ngân hàng là ACB, VIB, LienVietPostBank… Có thể thấy, sức ảnh hưởng của nhóm cổ phiếu “vua” đối với thị trường chứng khoán Việt Nam là không hề nhỏ.
Triển vọng phân hóa mạnh
Video đang HOT
Động lực tăng giá của nhóm cổ phiếu ngân hàng trong 3 tháng đầu năm 2019 đến từ những triển vọng tích cực của ngành, khi nhiều ngân hàng ghi nhận lãi lớn trong quý I. Chẳng hạn, TPBank vừa công bố kết quả kinh doanh quý I/2019, lợi nhuận trước thuế đạt 853 tỷ đồng, tăng 66% so với cùng kỳ năm ngoái. Mục tiêu năm 2019 của TPBank là đạt hơn 3.000 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế. Theo chu kỳ, vào quý đầu năm, hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thường có phần trầm lắng, thế nhưng các nhà băng vẫn lạc quan về tình hình kinh doanh 3 tháng đầu năm 2019, cũng như kế hoạch đưa ra cho cả năm nay.
Tại OCB, chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế năm 2019 dự kiến trình Đại hội đồng cổ đông (ĐHCĐ) ở mức 3.200 tỷ đồng, tăng mạnh so với mức thực hiện của năm 2018 là hơn 2.200 tỷ đồng. Riêng quý I/2019, theo kế hoạch đưa ra, OCB dự kiến thu về khoảng 800 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế. Trong khi đó, ông Đặng Khắc Vỹ, Chủ tịch HĐQT VIB cho hay, kết quả kinh doanh quý I/2019 của Ngân hàng có triển vọng tích cực. Tuy chưa có số liệu kiểm toán, nhưng thu nhập thuần của VIB trong quý I/2019 tăng 60 – 70% so với cùng kỳ năm 2018.
Không riêng các nhà băng kể trên, nhiều ngân hàng kỳ vọng mục tiêu lợi nhuận ở mức cao, như Vietcombank 20.000 tỷ đồng năm 2019 và 1 tỷ USD năm 2020, HDBank 5.000 tỷ đồng, ACB gần 7.300 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế… Bên cạnh đó, các yếu tố như tăng trưởng tín dụng và phương án xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 được kỳ vọng sẽ mang đến những chuyển biến tích cực cho toàn ngành. Nợ xấu giảm, dự phòng rủi ro không tăng lên, ngược lại còn được hoàn nhập… sẽ ảnh hưởng tích cực tới lợi nhuận của các nhà băng.
Theo dự báo của các công ty chứng khoán và chuyên gia, lợi nhuận của các ngân hàng sẽ tiếp tục tăng trưởng 20 – 33% năm 2019, thậm chí có thể lên tới 40%. Với diễn biến này, sức hút của nhóm cổ phiếu vua là không thể chối cãi. Tuy nhiên, triển vọng tăng giá của cổ phiếu sẽ phân hóa mạnh theo tình hình “ sức khỏe” của mỗi nhà băng.
Công ty Chứng khoán Bảo Việt nhận định, dù đã có giai đoạn giao dịch trầm lắng, thậm chí đi xuống, cổ phiếu ngân hàng Việt Nam vẫn hấp dẫn hơn so với cổ phiếu ngân hàng trong khu vực. Khi so sánh tương quan giữa P/B (tỷ lệ giá cổ phiếu trên giá trị sổ sách) với ROE bình quân 5 năm trở lại đây, cổ phiếu ngân hàng Việt đắt hơn so với các quốc gia trong khu vực, nhưng khi so sánh mức định giá hiện tại với ROE năm 2019, cổ phiếu ngân hàng Việt Nam hiện đang ở dưới giá trị.
Trong thời gian tới, cổ phiếu ngân hàng sẽ có sự phân hóa rõ nét, giới đầu tư phải quan sát kỹ lưỡng hơn để đoán định được diễn biến của thị trường, bởi rõ ràng, nhóm cổ phiếu vua tác động không nhỏ tới VN-Index.
Theo Công ty Chứng khoán Rồng Việt, năm 2019, chi phí dự phòng, hiệu quả kinh doanh, hệ số NIM (tỷ lệ thu nhập lãi cận biên) sẽ phân hóa giữa các ngân hàng. Bên cạnh đó, việc đầu tư, nâng cấp hệ thống ngân hàng lõi và đầu tư vào ngân hàng số sẽ khiến các nhà băng khó có thể tiết kiệm chi phí hoạt động trong vài năm tới. Trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng được kiểm soát chặt chẽ, mỗi nhà băng phải tìm chiến lược thích hợp để có thể đạt hiệu quả hoạt động kinh doanh tích cực nhất. Trong quá trình này, lợi thế vẫn thuộc về các tên tuổi lớn như Vietcombank và sự phân hóa sẽ càng rõ nét.
Điều này cũng được thể hiện qua kết quả kinh doanh của các ngân hàng trong năm qua. Trong đó, nhiều nhà băng đạt lợi nhuận “khủng” như Vietcombank đạt hơn 18.000 tỷ đồng lợi nhuận, Techcombank đạt gần 10.700 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế; ACB đạt gần 6.400 tỷ đồng, VPBank hơn 9.200 tỷ đồng… Trong khi đó, không ít ngân hàng vẫn phải trích lập dự phòng rủi ro cao, “ăn mòn” lợi nhuận, với những tên tuổi như Agribank, VietinBank, BIDV…
Hiện tại, theo Công ty Chứng khoán VietinBank, khả năng duy trì đà tăng điểm của chỉ số VN-Index là khá tốt, trong bối cảnh thị trường chứng khoán Việt Nam đang nhận được nhiều thông tin hỗ trợ tích cực từ vĩ mô cho tới vi mô, nhất là việc khối ngoại liên tiếp mua ròng khá mạnh kể từ đầu năm. Nhìn nhận về nhóm cổ phiếu ngân hàng, ông Nguyễn Hoàng Việt, phụ trách phân tích thị trường, Công ty Chứng khoán VietinBank cho rằng, hầu hết các cổ phiếu ngân hàng đều đã được chiết khấu về một mặt bằng giá mới rẻ hơn nhiều so với đầu năm 2018. Điều này góp phần tạo nên sức hấp dẫn của nhóm cổ phiếu vua.
Cùng chung quan điểm, giới phân tích tài chính nhận định, với kỳ vọng kinh tế trong nước tiếp tục duy trì sự ổn định ít nhất trong 12 – 18 tháng tới, nhóm cổ phiếu ngành ngân hàng được đánh giá tích cực. Yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến sự kỳ vọng của nhà đầu tư chính là lợi nhuận năm 2019 có thể không đột phá như hai năm vừa qua. Cùng với đó, câu chuyện “nới room” và tăng vốn điều lệ cũng sẽ là chủ đề lớn cần được theo dõi khi dự báo thị giá cổ phiếu ngân hàng. Với mặt bằng giá cổ phiếu hiện tại, nhóm cổ phiếu ngân hàng có sức hấp dẫn lớn và là một trong những tâm điểm đầu tư năm nay. Theo đó, các cổ phiếu VCB, ACB, MBB, TCB… được quan tâm theo dõi về giá và chờ cơ hội đầu tư đối với nhóm STB, CTG, HDB…
Trong thời gian tới, không ít nhà băng sẽ đưa cổ phiếu niêm yết trên sàn HOSE như OCB, Nam A Bank và VIB, LienVietPostBank chuyển từ UPCoM sang sàn HOSE. Đây sẽ là một trong những tâm điểm chú ý của nhà đầu tư khi xem xét danh mục để bỏ vốn, bởi tính hấp dẫn và đẳng cấp của cổ phiếu “vua”.
Dù lạc quan với triển vọng tích cực của nhóm ngân hàng, nhưng giới đầu tư vẫn cần thận trọng xem xét các rủi ro. Theo đó, việc nhiều ngân hàng lớn báo lãi con số kỷ lục năm 2018 đang tạo áp lực cho năm 2019, khi các nhà băng khó có thể duy trì tốc độ tăng trưởng lợi nhuận cao, thậm chí có khả năng tốc độ chậm lại hoặc giảm do Ngân hàng Nhà nước không có chủ trương duy trì mặt bằng tăng trưởng tín dụng cao như giai đoạn 2014 – 2018.
Hơn nữa, việc áp dụng Basel II khiến các nhà băng phải nhanh chóng tăng vốn, một trong những phương pháp là phát hành lượng lớn cổ phiếu, tạo rủi ro pha loãng giá cổ phiếu. Chưa kể, các nhà băng sẽ phải chuyển dịch mảng hoạt động kinh doanh từ cho vay tín dụng sang cung cấp các dịch vụ ngân hàng. Việc này có thể làm suy giảm lợi nhuận của ngành trong ngắn hạn. Đáng chú ý, bức tranh nợ xấu ngành ngân hàng vẫn là một ẩn số trong năm 2019, trong bối cảnh giới đầu tư toàn cầu đang tỏ ra thận trọng về nguy cơ khủng hoảng toàn cầu có thể nhen nhóm.
Bảo Lâm
Theo tinnhanhchungkhoan.vn
Tăng vốn là điều kiện sống còn của ngân hàng
Cuộc đua tăng vốn điều lệ, nâng cao năng lực tài chính của ngân hàng chưa bao giờ có hồi kết, thậm chí ngày một nóng hơn khi lộ trình áp chuẩn Basel II cận kề.
Dù đạt lợi nhuận cao năm 2018, nhưng Techcombank không trả cồ tức, mà giữ lại toàn bộ để tăng vốn
Basel II cận kề
Tín dụng tăng nhanh thời gian qua, trong khi vốn chủ sở hữu tăng chậm thời gian qua đã khiến hệ số CAR (hệ số an toàn vốn) của nhiều ngân hàng giảm sút. Tới năm 2020, khi Basel II được triển khai rộng rãi, hệ số CAR của nhiều ngân hàng sẽ bị đánh giá giảm hơn nữa dựa theo công thức mới. Nếu không tìm được cách cải thiện, các ngân hàng phải hạn chế mức độ tăng trưởng tín dụng để giữ hệ số an toàn vốn trên ngưỡng tối thiểu.
Vì vậy, không chỉ có ngân hàng nhỏ, mà ngay cả Vietcombank, VietinBank, BIDV đều có chung mong muốn tăng vốn đáp ứng nhu cầu tăng trưởng mọi mặt và đáp ứng chuẩn Basel II. Sau khi Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) bật đèn xanh với việc hút vốn ngoại của các nhà băng này, BIDV đã chính thức công bố bản kế hoạch phát hành tăng vốn cho nhà đầu tư chiến lược đến từ Hàn Quốc, Vietcombank cũng sẽ tiếp tục tăng vốn trong năm nay.
TS. Nguyễn Văn Thuận
CAR theo quy định của NHNN đạt 13% và theo tiêu chuẩn Basel II đạt 12%. Trong 10 tổ chức tín dụng đầu tiên được NHNN lựa chọn thí điểm triển khai Basel II, mới có 4 ngân hàng hoàn tất (Vietcombank, VPBank, VIB, ACB) và gần đây có thêm OCB, TPBank. Vì thế, áp lực tăng vốn của các ngân hàng hiện nay rất lớn và cuộc đua này chưa có điểm dừng, vì hệ số CAR của các ngân hàng, nhất là đối với các ngân hàng có vốn nhà nước, đã tiệm cận mức 9%. Nếu áp dụng các chuẩn mực Basel II, CAR sẽ giảm xuống dưới 8%.
Do đó, nhu cầu tăng vốn trong giai đoạn 2018 - 2020 của riêng ngân hàng thương mại có vốn nhà nước (BIDV, VietinBank, Vietcombank) gấp đôi so hiện tại, đạt tốc độ tăng trưởng tài sản 14 - 18%/năm, đáp ứng CAR từ 8% trở lên và nhà băng nhỏ cũng không nằm ngoài cuộc đua tăng vốn điều lệ để đáp ứng được chuẩn Basel II.
Bởi mục tiêu mà Chính phủ đề ra cho các ngân hàng cổ phần Việt Nam đến cuối 2020 cơ bản có mức vốn tự có theo chuẩn mực của Basel II, trong đó ít nhất 12 - 15 ngân hàng áp dụng thành công Basel II phương pháp tiêu chuẩn trở lên. Tới cuối năm 2025, tất cả các ngân hàng thương mại áp dụng Basel II tiêu chuẩn, thí điểm áp dụng Basel II nâng cao tại ngân hàng thương mại có vốn nhà nước và ngân hàng cổ phần có chất lượng quản trị tốt.
Giai đoạn 2018 - 2020, ngành ngân hàng sẽ tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống gắn với trọng tâm là xử lý căn bản, triệt để nợ xấu và các tổ chức tín dụng yếu kém bằng các hình thức phù hợp theo cơ chế thị trường trên nguyên tắc thận trọng, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và giữ vững sự ổn định, an toàn hệ thống. Bởi thực tế cho thấy, định hướng của Chính phủ cũng là giảm số lượng tổ chức tín dụng yếu kém để có số lượng tổ chức tín dụng phù hợp, hoạt động lành mạnh toàn hệ thống.
Tuy đã nhận thức được tiêu chuẩn tại Basel II là cần thiết để xây dựng quy trình, quy tắc quản trị rủi ro cho ngân hàng, nhưng với năng lực của một số ngân hàng Việt Nam, thì yêu cầu của tiêu chuẩn Basel II khá cao, nên việc áp dụng cần có thời gian.
Trong nỗ lực tái cơ cấu và xử lý nợ xấu thời gian qua, các ngân hàng đã phải tự cải thiện lợi nhuận để có nguồn xử lý nợ xấu. Tuy nhiên, điều quan trọng là để hệ thống ngân hàng lành mạnh hơn, các ngân hàng phải tăng vốn chủ sở hữu để nâng tỷ lệ an toàn vốn. Việc tăng vốn phải tránh được bài học trước đây là vẫn có những ngoại lệ được "khất", "hoãn", hoặc tăng nhưng không phải tiền thật, mà bằng các hình thức sở hữu chéo, đầu tư chéo.
Trong thời gian tới, để đảm bảo tỷ lệ CAR theo tiêu chuẩn Basel II, nhu cầu tăng vốn của các ngân hàng rất lớn, đặc biệt là đối với các ngân hàng thương mại có vốn nhà nước và phải tăng bằng "tiền tươi, thóc thật".
Chia cổ tức, cổ phiếu thưởng tăng vốn
Có thể thấy, để có thể đáp ứng quy định của Basel II, từ nay tới cuối năm 2020, nhu cầu vốn tự có của các ngân hàng tăng thêm là rất lớn.
Theo ước tính của Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia, các ngân hàng phải tăng vốn tự có dự kiến gấp 1,8 - 2 lần so với thời điểm hiện tại. Còn theo Moody's, với mức tăng trưởng tín dụng hiện nay, các ngân hàng Việt Nam sẽ cần thêm 7 - 9 tỷ USD tăng thêm vốn đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn cấp 1 ở mức 11% vào năm 2018 và 2019. Đó cũng là lý do để các ngân hàng mạnh tay chia cổ tức và phát hành cổ phiếu thưởng.
Trong mùa Đại hội đồng cổ đông năm nay, hầu hết nhà băng chia cổ tức ở mức cao bằng cổ phiếu và phát hành cổ phiếu thưởng cho cổ đông, chẳng hạn ACB chia cổ tức bằng cổ phiếu tỷ lệ 30%, HDBank chia cổ tức 10% bằng cổ phiếu và phát hành cổ phiếu thưởng tỷ lệ 20%, Nam A Bank chia 16% cổ tức bằng cổ phiếu, VIB phát hành cổ phiếu thưởng tỷ lệ 18%...
Từ thực tế trên, có thể thấy, áp lực tăng vốn đáp ứng các chuẩn Basel II đang ngày một cận kề. Trong khi đó, những ngân hàng còn lại trong danh sách thí điểm nói trên đã báo cáo lên NHNN rằng, sẽ đáp ứng được yêu cầu của Thông tư 41/2016/TT-NHNN trong năm 2019. Xem xét hệ số an toàn vốn hiện nay, một số ngân hàng có thể đáp ứng yêu cầu này. Tuy nhiên, để có thể có khoảng cách an toàn vốn đủ cho tăng trưởng trong giai đoạn tiếp theo, các ngân hàng phải nỗ lực huy động thêm vốn trong năm 2019.
Theo Thông tư 19/2017/TT-NHNN, các khoản loại trừ khỏi vốn cấp 2 riêng lẻ gồm trái phiếu chuyển đổi do tổ chức tín dụng khác phát hành, nợ thứ cấp do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác phát hành đáp ứng đầy đủ các điều kiện để tính vào vốn cấp 2 của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phát hành mà tổ chức tín dụng mua, đầu tư theo quy định của pháp luật.
Đối với trái phiếu chuyển đổi, nợ thứ cấp được mua, đầu tư từ năm 2018, tổ chức tín dụng trừ khỏi vốn cấp 2 theo lộ trình đã được ấn định trừ 25% từ năm 2018 đến trừ toàn bộ giá trị khoản mua, đầu tư trái phiếu chuyển đổi, nợ thứ cấp kể từ năm 2021.
Tuy nhiên, chính các khoản loại trừ khỏi vốn cấp 2 này sẽ tác động đến CAR theo hướng giảm đi. Trong khi đó, theo mục tiêu và lộ trình thực hiện Basel II, áp lực đang đặt ra các ngân hàng thương mại Việt Nam phải nâng cao được hệ số này, chủ yếu qua nâng cao vốn tự có.
Dù vậy, để tăng được vốn điều lệ cũng không hẳn là điều dễ dàng với ngân hàng, nhất là đối với những nhà băng nhỏ. Do đó, thời điểm này, biện pháp tăng vốn khả thi nhất là giữ lại lợi nhuận. Thực tế, đã có một số ngân hàng không chia cổ tức năm nay mà giữ lại toàn bộ lợi nhuận năm rồi để tăng vốn như ABBank, Techcombank, SCB... Nhưng không phải ngân hàng nào cũng có được kết quả lợi nhuận khả quan hoặc có thể còn chịu áp lực tăng dự phòng rủi ro lớn do nợ xấu còn ở mức cao.
Ngoài việc tăng vốn điều lệ để duy trì hệ số CAR, thì vốn chủ sở hữu cũng là yếu tố quan trọng và được coi là "tấm đệm" cho ngân hàng. Đơn cử, trong hoạt động tín dụng, theo quy định, ngân hàng cho vay một khách hàng không quá 15% vốn chủ sở hữu và rất nhiều hoạt động ngân hàng khác phụ thuộc vào nguồn vốn này...
Vì vậy, không chỉ vốn điều lệ, nếu ngân hàng có vốn chủ sở hữu cao tức là sẽ có "đệm dày" để có thể chống đỡ, giảm thiểu thiệt hại khi thị trường có biến động. Ngược lại, ngân hàng vốn mỏng sẽ bị tác động mạnh, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh. Vì thế, hệ số CAR và vốn chủ sở hữu đều là "xương sống" của ngân hàng.
TS. Nguyễn Văn Thuận, Chuyên gia ngân hàng
Theo tinnhanhchungkhoan.vn
Nam A Bank vẫn tăng trưởng ổn định dù tranh chấp cổ đông Trước thông tin tranh chấp cổ đông gây chú ý dư luận thời gian gần đây, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nam Á (Nam A Bank) đã lên tiếng và cho biết tranh chấp nội bộ gia đình ông Nguyễn Chấn và ông Nguyễn Quốc Toàn sau khi bà Tư Hường mất là tranh chấp dân sự về cổ phiếu Nam A...