Có một nỗi buồn mang tên Hà Nội: Những câu chuyện cổ tích về Hà thành
Hà Nội đẹp, Hà Nội lãng mạn, Hà Nội thanh lịch… dường như chỉ còn trong ký ức. Hà Nội thời đô thị hóa có biết bao mặt trái như ô nhiễm, tắc đường, quan hệ gia đình và xã hội phức tạp… Điều đó khiến những người yêu Hà Nội càng thêm nặng lòng, nhớ thương quá khứ.
Năm 1995, tôi xuất bản tập thơ Những người đàn bà gánh nước sông, trong đó có bài thơ Lời cầu nguyện viết về Hà Nội, thành phố tôi sống ở đó. Bài thơ có đoạn:
Mùa thu Hà Nội đẹp như tranh vẽ. Ảnh minh họa
Họ chạy trong thành phố: Những ngõ sâu hốc hác, những lề đường ê chề, những công việc mắc bệnh… Thành phố không chốn an toàn cho họ giấu đủ một ngón tay
Ngoài kia, những cánh đồng đắng cay vì bệnh tật kéo dài. Hoàng hôn xấu xí
Ngũ cốc đang gập mình bởi cơn ho hóa chất sặc mùi
Chạy trốn những khách sạn cửa đóng mở không lý do, không ký ức và không thổn thức
Chạy trốn những tã lót, quần áo cũ phơi rợp trên những nóc nhà thành phố.
Vừa chạy họ vừa ngước lên những vòm cây chật vật đâm chồi
Ngước lên bầy chim cánh chập choạng, rũ rượi bay, hát bài ca kiên nhẫn
Ngước lên những đám mây trĩu ngực vì bụi cố bò qua cơn dị ứng của thời tiết vô luân.
Ngước lên những ngôi sao mới bóc vỏ, hăng nhựa – đôi mắt trẻ sơ sinh, giọt rưụ vang của thần hy vọng
Ngước lên dòng sông gió chảy giữa hai bờ cổ họng khản đặc của đêm
Ngước lên linh hồn những hồ nước bị diết đang bay lượn tìm nơi hạ cánh.
Video đang HOT
Nhà văn Nguyễn Quang Thiều – tác giả bài viết
Đã có người nổi giận với tôi với lý do vì sao tôi lại nói về thủ đô của cả nước với những câu thơ như vậy. Nhưng đó chính là sự dự báo về Hà Nội những năm tháng sau này và đặc biệt bây giờ.
Tôi luôn mang cảm giác linh hồn Hà Nội đang rời bỏ chúng ta và chỉ để lại thân xác của thành phố vốn thanh bình và huyền ảo này. Trong trí tưởng tượng hay nói đúng hơn là sự ám ảnh, có những đêm mùa hạ ngột ngạt, bức bối, tôi cảm như nhìn thấy linh hồn những hồ nước của Hà Nội đã bị “hại chết” đang bay lượn tìm nơi hạ cánh. Một trong những thứ làm nên lịch sử, văn hóa, huyền thoại và sự thơ mộng của Hà Nội chính là những hồ nước. Nhưng chúng ta đã không bao giờ biết đến điều đó hoặc biết đến nhưng sự tham lam của chúng ta đã lấn át tất cả. Có bao nhiêu hồ nước ở Hà Nội bị san lấp, lấn chiếm? Những công trình xây dựng quanh các hồ nước nếu nhìn từ trên cao xuống nó giống như một chiếc dây thòng lọng đang xiết cổ những hồ nước.
Cách đây hơn 10 năm, người ta đã ký cho phép một tập đoàn xây khách sạn 5 sao trong công viên Thống Nhất. Nhưng vì dư luận và báo chí lên tiếng quá mạnh mẽ, họ đã phải hủy bản hợp đồng chết người ấy. Và mới mấy năm gần đây thôi, người ta đã đề xuất san lấp một phần của một trong những hồ nước lớn nhất của Hà Nội với cái tên gọi đầy “nhân đạo”: Xây dựng nhà giá rẻ cho những hộ gia đình tái định cư. Nhưng một lần nữa, dư luận đã chặn được “vụ ám sát thiên nhiên” này.
Những hồ nước không chỉ là một “lá phổi”, “chiếc máy điều hòa” của Hà Nội mà là một vùng văn hóa của đất Thăng Long này. Hồ Gươm, Hồ Tây, Hồ Trúc Bạch… đều chứa trong nó những câu chuyện của lịch sử, của văn hóa, của huyền thoại, của nghệ thuật. Khi nước Úc xây dựng thủ đô mới của họ là Canbera, họ quyết định xây một hồ nước lớn ở trung tâm. Và họ đã biến không gian quanh hồ nước ấy thành một vùng thiên nhiên và một vùng văn hóa thực sự kỳ vĩ. Tôi đã lang thang bên hồ nước ấy và lòng buồn bã thương nhớ những hồ nước ở thủ đô của mình.
Chúng ta đã có một thiên nhiên huyền ảo, những vẻ đẹp văn hóa huyền ảo, những câu chuyện kỳ vĩ và nhân văn ở nơi chốn kinh kỳ này. Thế mà giờ đây, chúng ta đã và đang đánh mất. Chúng ta đang rời bỏ những vẻ đẹp ấy, thậm chí chúng ta trực tiếp hại chết những vẻ đẹp ấy. Giờ đây, những vẻ đẹp đã từng có thực ấy chứ không phải trong mộng chỉ còn lại trong những giai điệu, những gam màu, những câu thơ và trong nỗi buồn nhớ của những người thấu hiểu giá trị lớn lao vô bờ của những vẻ đẹp cho đời sống thực sự của con người.
Người dân Hà Nội đang phải sống trong môi trường không khí ô nhiễm hàng đầu thế giới
Có một điều buồn hơn là cho đến lúc này, thông điệp về những cái chết của những vùng thiên nhiên và vùng văn hóa đặc trưng của Hà Nội và của mọi nơi khác trên đất nước ta không thức tỉnh được nhiều người, đặc biệt là những người có trách nhiệm quản lý các đô thị. Nếu bây giờ, người ta cho phép mở nhà hàng nổi trên mặt Hồ Gươm thì họ sẽ tranh nhau mở, nếu bây giờ người ta cho phép lấp một phần Hồ Tây để xây chung cư hiện đại thì họ sẽ đạp lên nhau để có được quyền xây…
Càng ngày, người dân Hà Nội càng nhận ra họ đang bị một thế giới bê tông bao vây và giam cầm họ. Thiên nhiên đang bị đuổi về “trời”. Tôi thường xuyên chứng kiến những người dân Hà Nội vừa đeo khẩu trang vừa tập dưỡng sinh trên hè phố vào những buổi chiều. Một cảnh vừa đau lòng, bi hài vừa nổi giận.
Đêm đêm, tôi như nghe tiếng chuyển động nặng nề của những con thú “bê tông hóa” đang chà đạp lên những vẻ đẹp thẳm sâu và huyền ảo của Thăng Long.
Những công trình xây dựng cao tầng mọc lên như nấm sau mưa ở Hà Nội. Ảnh minh họa
Rồi đến một ngày, những thế hệ tương lai dẫn con cháu họ đến bên những ngôi nhà chọc trời và kể “ngày xửa ngày xưa, ở chốn này là một hồ nước mênh mông thẳm xanh với những đàn sâm cầm đập cánh như một cơn mưa chiều mùa hạ…”, hay “nơi này thuở trước là một rừng đào bất tận với những làn mưa ấm đầu xuân…”.
Lúc đó, cho dù những đứa trẻ mở hết biên độ của trí tưởng tượng cũng không bao giờ chạm vào thế giới ấy. Và có thể có những đứa trẻ sẽ nói với bạn chúng rằng: “Hôm qua, ông bà/cha mẹ tớ kể cho tớ một câu chuyện cổ tích”.
Bài sau: Thương Hà Nội quá!
Nhà văn Nguyễn Quang Thiều
Theo phunuvietnam.vn
Như thế nào là giải thoát?
Có nghĩa là: Không bị ràng buộc. Bằng cách nào gọi là giải thoát...? Xuất gia chăng.
Có câu: "Xuất gia xuất giá cũng đồng đi, hai nẻo khác nhau mới lạ kỳ, cõi đạo đưa về nơi tịnh lạc, đường đời đưa đến cảnh sầu bi?".
Quan niệm xuất gia là không ràng buộc có tuyệt đối chăng? Kể ra không gì tuyệt đối cả. Nếu ta xuất gia, giác ngộ, ý thức con đường lý tưởng, thì hạnh phúc an lạc biết bao? Ngược lại tìm giải thoát, ké tư duy, hay bức xúc, gặp phúc an lạc biết bao? Ngược lại tìm giải thoát, kém tư duy, hay bức xúc, gặp cảnh phũ phàng đè nén tâm tư, trốn chạy hiện thực... thì sự giải thoát có sợ giây vô hình thắt chặt khó tìm lối ra!
Có người nghe những trận động đất, nước lũ thiên tai khắp thế giới... rồi bị tác động bên ngoài, cho rằng đời sẽ tận thế. Tu khỏi chết, được dự hội Long Hoa, tu sẽ được lột da sống đời. Chùa tôi có hai phật tử miền quê quá chất phác, chạy theo luận trên, thời gian rồi hơi tàn sức kiệt. Mãi chờ lột da sống đời, định luật vô thường đến, chưa kịp lột da, hai người đã nằm yên dưới lòng đất.
Và có những người cầu giải thoát, bị số người kích động, tội nghiệp đem gia tài bố thí, cầu phước báu sống lâu, khỏi bị đất sụp. Than ôi! Những người ấy sống dở, chết dở, ngày mai đất chưa sụp, lấy gì nuôi sống bản thân và gia đình? Vì vạn bá ưu tiền. Bố thí là việc tốt, nhưng sợ chết mà bố thí có nên chăng?
Ảnh minh họa.
Đã sợ chết là bị ràng buộc trong kiếp sống, nhưng cái chết là định luật. Thế thì phải làm sao? Trốn hang sâu núi thẳm, tránh nữ thần chăng? Nơi ấy chỉ có đá và những dòng suối tuôn chảy. Hãy cẩn thận cầu giải thoát, phải trắc nghiệm bản thân mình. Tôi đã tiếp xúc nhiều thành phần cầu giải thoát, muốn sống lâu, vô tình lấy dây cột trói bản thân mình...!
Đức Phật sinh ra đời, Ngài cũng bị trói buộc, ngôi sao tột đỉnh, vợ đẹp, con xinh... Ngài tự mở trói chính mình, không vướng tơ hào nào cả và Ngài từ bi chỉ cho nhân loại cách mở khóa, tháo chốt, bằng phương châm: Tứ diệu đế, Thập nhị nhân duyên. Phật đã đưa ra nhiều đề tài như tám muôn, bốn ngàn pháp môn tu, nếu ta đi sâu vào tự tánh, những gút thắt tuy khó mở, đừng hấp tấp, từ từ mở sẽ có ngày thành công.
Giải thoát không có nghĩa là chạy trốn và bảo tất cả không định hướng. Tự tán giải thoát không có gì ràng buộc! Sở thích cũng tạm gọi là tự tánh có những người họ không đòi hỏi giải thoát, họ sống rất hạnh phúc, như các nhà khoa học. Họ lấy thế giới làm nhà, lấy không gian làm lò sưởi ấm, lấy biển cả và rừng thiêng làm mầm sống. Họ vui lòng trước hiểm họa, trước cái chết trong những cuộc thám hiểm. Những vị ấy nào đợi giải thoát, vì họ chẳng có gì ràng buộc.
Có câu nhất tu Thị, nhị tu Sơn, thứ ba tu Chùa. Câu nói hàm chứa ý nghĩa: Người tu Thị là sống giữa xã hội bon chen, có phong cách, tế nhị, khéo léo, uyển chuyển trong mọi lĩnh vực, tìm sự sống trong niềm vui an lạc.
Nhị tu Sơn, nói về người tâm cứng rắn và hiểu rõ 8 yếu tố mà người thường bị quay cuồng: Danh lợi, vui sướng, khen, chê, mong cầu, ganh tỵ, uất ức, khổ đau. Sự hiểu biết và tư tưởng người tu Sơn rộng rãi, bao la, như núi rừng. Hỷ, nộ, ái, ố, lắng dịu. Họ thường vươn lên ít khi gục ngã hay thất bại trước đòn dư luận.
Thứ ba tu Chùa: Chùa tượng trưng cho lớp học Cao đẳng, đi sâu vào chân lý, là chỗ diệu dụng của Tự tánh, là môi trường hóa giải kiếp như ngành Y học Giám định Y khoa, phân thích những vết thương, bệnh nhân: Sâu hay cạn và giải phẫn bệnh nhân bằng cách nào? Để bảo toàn sanh mạng con người!
Câu nói trên cũng như thân cây chia ba cành, luôn luôn tựa vào nhau. Ai muốn ăn trái đừng đốn gốc, cũng đừng vội vã hái trái xanh, rồi chê chua. Muốn tìm quả ngọt, ẩn trong mầm chua như chuối hay xoài còn sống thì xanh, khi chín đổi thành màu vàng sẽ ngọt. Bỏ chua tìm ngọt, khó lãnh hội được cái tự nhiên của Trời đất.
Đạo Phật là đạo thực tế, có tánh cách giáo dục, giáo lý thâm sâu khó thể nghĩ bàn, nếu người học tu, thể hiện pháp Phật một cách mơ màng, không phân biệt trắng đen là cầu giải thoát, như nấu cơm ngon, hay dở phải do người khéo nấu, cũng đồng là gạo, người biết cách nấu cơm, lúc đầu phải để lửa lớn, khi sôi gần chín phải bớt lửa ra, nếu để lửa lớn mãi, cơm bị khét.
Phương pháp tu cũng thế, ta chẳng bỏ nhu cầu vật chất hoàn toàn, cũng chẳng săn sóc thể xác hoàn mỹ, vì thể xác là những tập hợp của các phân tử, chẳng sớm thì muộn cũng bị luật vô thường cướp đi. Đạo Phật là đạo phát triển tâm linh, đi sâu vào thế giới tự giác. Ta không thể hiểu pháp Phật một cách mù mờ, không rõ ý Đấng Thế Tôn, là oan gia cho chư Phật "Y kinh diễn nghĩa tam thế Phật oan, Ly kinh nhứt tự tức đồng Ma thuyết" Phật thuyết giáo: Khai, Quyền, Hiển, Thiệt. Nền y văn tự khôn rõ ý Như Lai, là oan gia cho chưa Phật 3 đời, còn như lìa kinh tự tức đồng ma thuyết.
Có người hỏi Bố Đại hòa thượng phương pháp tu hành ra sao? Ngài không đáp, bỏ túi vải xuống. Vị khách hỏi tiếp, Ngài mang túi vải lên vai. Khách hỏi nữa, Ngài xoay lưng đi luôn, chẳng đáp lời nào cả. Tại sao Ngài có thái độ lạ thế, Ngài thể hiện lời dạy bằng hành động: Buông xuống là không chạy theo ngũ dục, mang túi vải lên vai, là đi trên đường hướng thượng, cao cả và xoay lưng đi thẳng, vì mọi vật trên đời gìn giữ sẽ bị kẹt.
"Nắm chặt mây che cửa động
Giải đải trăng lặn vực sâu
Có gió dữ mới hay cây cỏ cứng
Có đường dài mới biết sức ngựa hay"
Nếu cầu giải thoát một cách bừa bãi, như thuyền lạc hướng, giữa biển nước mênh mông. Than ôi! Trước mặt mây mù, sau lưng thì nước lũ, mịch mịch sấm chớp giăng, lối đi không phương hướng, lối về tắc nghẽn tương lai. Người có giải thoát thực sự, nhận thức rõ lý Âm, Dương của Vũ trụ biết thân đã gá mộng! Làm sao không còn mộng, như lời Hòa thượng Thanh Từ nói. Gá thân mộng:
"Dạo cảnh mộng
Mộng tan rồi
Cười vỡ mộng
Ghi lời mộng
Nhắn khách mộng
Tỉnh cơn mộng"
Nguyễn Phương Túy
Theo Phật giáo Việt Nam
5 lý do sẽ khiến bạn phải thốt lên: "Yêu con trai kém tuổi đúng là chân ái" Chuyện những cô gái yêu chàng trai ít tuổi hơn mình hiện nay không còn là vấn đề quá xa lạ. Người ta vẫn nói vui bằng những cụm từ như "máy bay bà già", "phi công trẻ". Không ít người cho rằng, con gái yêu người kém tuổi sẽ phải chịu đựng nhiều thiệt thòi, điều tiếng. Song, cũng có những ý...