Có một chiến dịch “Babylift” khác
Ngoài chiến dịch “ Babylift” được nói nhiều, thời điểm tháng 4-1975 còn có một chiến dịch di tản trẻ mồ côi Nam Việt Nam ít được nhắc đến – một chiến dịch nhân đạo thậm chí bị Nhà Trắng cản trở…
Thái độ xuôi tay của Nhà Trắng
Một ngày Chủ nhật năm 1975, cuộc đời Charlotte Behrendt bắt đầu trở thành chuỗi sự kiện dồn dập khó quên từ một cú điện thoại. Charlotte – 28 tuổi, con gái duy nhất của Edward J. Daly (người sáng lập Hãng Hàng không World Airways) – được Maria Eitz (viên chức điều hành Cô nhi viện Friends For All Children tại Boulder, bang Colorado) cho biết họ cần giúp những đứa trẻ mồ côi Việt Nam tránh làn đạn chiến tranh. Ngay sau khi nhận điện từ con gái, Daly bắt đầu phác họa kế hoạch. Trước đó, ngày 27-3-1975, ông đã đánh điện cho Tổng thống Gerald Ford và Ngoại trưởng Henry Kissinger yêu cầu tổ chức sơ tán trẻ mồ côi ở Sài Gòn. Daly không nhận được hồi âm. Nổi nóng trước thái độ của Nhà Trắng, Daly ra tay thực hiện sứ mạng riêng.
Trên một chuyến World Airways vào thời điểm tháng 4-1975
Nhịp cầu kết nối tìm lại người thân
Theo đề nghị của bạn đọc, báoDân Trí sẽ làm cầu nối để đăng tải thông tin nhằm giúp những người con Việt Nam trong “chiến dịch không vận trẻ em” năm 1975 tìm lại thân nhân. Độc giả trong và ngoài nước quan tâm, có những thông tin hay câu chuyện về chiến dịch này, hãy chia sẻ với chúng tôi.
Thư xin gửi về địa chỉthegioi@dantri.com.vn. Chân thanh cam ơn! (Thư có thể viết bằng tiếng Việt hoặc tiếng Anh).
Ông lập phi đội bay khẩn với kinh phí riêng. Để chiến dịch tiến hành càng nhanh càng tốt, Daly rút một máy bay từ chương trình vận chuyển gạo tại Campuchia sang Việt Nam. Thế là sáng 2-4-1975, Cơ trưởng Bill Keating đến Phonom Penh, hối hả dỡ 45 tấn gạo xuống rồi lập tức bay đến Sài Gòn vào giữa trưa. Chỉ đến lúc đó Keating và đồng sự Kenneth Healy mới biết họ được giao nhiệm vụ đưa 550 trẻ mồ côi Việt Nam sang Mỹ. Chuyến bay được hỗ trợ từ nhiều tổ chức từ thiện. Trên máy bay có 4 bác sĩ, 17 y tá thuộc nhiều quốc tịch (Mỹ, châu Âu và Australia)…
Video đang HOT
Với Daly, ông chẳng lạ gì sứ mạng sơ tán chiến tranh, đặc biệt tại Việt Nam. Từ ngày 24-3 đến 26-3-1975, World Airways, với 3 chiếc Boeing 727 đã đưa 1.000 người rời Đà Nẵng vào Sài Gòn và Nha Trang theo hợp đồng với Air Vietnam. Ngày 27-3-1975, World Airways thực hiện loạt bay hợp đồng với USAID (Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ). Tuy nhiên, ngày 28-3, Mỹ và chính quyền Sài Gòn bắt đầu rút khỏi Đà Nẵng và không quan tâm nhiều đến đề nghị thực hiện tiếp chiến dịch sơ tán của Daly. Lần này, Edward J. Daly cũng tự thực hiện trên tinh thần nhân đạo.
Thậm chí khi đưa trẻ mồ côi về đến Sài Gòn, Daly vẫn đối mặt bức tường giá lạnh từ thái độ phớt lờ của chính quyền Sài Gòn và Mỹ. Được Edward J. Daly cử đi mua thực phẩm cho chuyến bay đầu tiên đưa trẻ mồ côi Việt Nam sang Mỹ, cô tiếp viên Jan Wollett liên tiếp chứng kiến sự từ chối, không chỉ từ Tổ chức Hồng thập tự Sài Gòn mà đến cả Tòa Đại sứ Mỹ. Tình thế gần như bế tắc trong khi thời điểm mỗi lúc gần kề lịch bay dự kiến vào 3 giờ 30 phút chiều 2-4-1975. Cuối cùng, Jan gọi hú họa Công ty sữa Foremost và may mắn sao lần này cô nhận được sự đồng ý giúp. Phần mình, Keating và Healy bắt đầu cho phủ mền và lưới khắp sàn máy bay, biến khoang máy bay thành chiếc nôi khổng lồ. Do máy bay (vốn là chuyên cơ vận tải hàng hóa) không có mặt nạ ôxy nên người ta dùng đến hàng chục bình ôxy di động. 4 nhà vệ sinh dã chiến cũng được dựng trên máy bay – 2 ở trước và 2 ở sau…
Những tình tiết của một chuyến bay lịch sử
Khoảng 13 giờ ngày 2-4-1975, Edward J. Daly cùng Margaret Moses (Phó giám đốc Friends For All Children) đến Tân Sơn Nhất trong đoàn xe được cảnh sát hú còi hộ tống. Visa xuất cảnh đã được cấp. Tất cả đều ổn cho đến khi Margaret bất ngờ nhận cú điện từ USAID, yêu cầu máy bay không được cất cánh bởi không đáp ứng tiêu chuẩn an toàn, đặc biệt tiêu chuẩn chăm sóc trẻ em. Tất cả phi hành đoàn đều giận dữ. Edward J. Daly gọi cho Mary Fisher (có chồng là mục sư làm việc tại Sài Gòn), rằng mình cần thêm y tá lẫn trẻ mồ côi, với hy vọng được tiếng nói ủng hộ từ giáo hội Tin lành. Đến 20 giờ 50 phút tối, khi mọi việc dường như dàn xếp xong và máy bay chỉ chờ rời đường băng, bất ngờ cảnh sát Sài Gòn yêu cầu tất cả phải rời khỏi phi trường lập tức, đề phòng bộ đội Bắc Việt trà trộn và đột nhập vào sân bay.
Viên chức Cơ quan Di trú Sài Gòn thậm chí lên máy bay với ý định đuổi từng người. Jan Wollett đau xót chứng kiến họ tách rời một bé trai 11 tuổi khỏi đứa em 3 tuổi của nó và thậm chí một người mẹ và bé sơ sinh của cô ấy. Nhiều lần, người mẹ bị đẩy khỏi cánh cửa máy bay và cô ấy gào khóc đưa đứa bé cho phi công Healy… Sau một tiếng căng thẳng, cuối cùng cánh cửa máy bay cũng đóng lại. Chiếc World Airways DC-8 đợi tín hiệu đồng ý từ tháp không lưu. Bất ngờ, đèn đường băng tắt phụp và chiến sự dường như xảy ra ở cuối phi trường. Không cách nào khác, Keating và Healy bắt đầu nổ máy, trước giọng thất thanh của nhân viên không lưu: “Các anh chưa được cất cánh. Dừng lại ngay, dừng ngay!”. Tuy nhiên, World Airways DC-8 đã ngóc lên không trung…
Trong chuyến bay 5 tiếng đến chặng dừng tiếp nhiên liệu tại căn cứ không quân Yokata (Nhật), đích thân Chủ tịch World Airways, Edward J. Daly đã cùng cô tiếp viên Jan Wollet thay tã cho các bé sơ sinh. Với Healy, một trong những kỷ niệm đáng nhớ nhất là việc bất chấp từ chối từ chỉ huy Vụ Hàng không Quân sự tại Scott Field (Illinois), yêu cầu không được bay thẳng từ Manila đến Los Angeles mà phải tạt qua Honolulu để tiếp nhiên liệu. Nói rằng những em bé sơ sinh không thể nằm lâu hơn nữa trên khoang máy bay, Healy vẫn cho máy bay trực hướng Los Angeles. Cuối cùng, một lần nữa, phi đoàn World Airways lại chiến thắng.
Khi máy bay hạ cánh xuống Los Angeles, nhiều gia đình Mỹ đã chờ nhận xin con nuôi. Tất cả đều an toàn, trừ một bé sơ sinh chết trên chuyến đi… Ngày 13-4-1975, Edward J. Daly vẫn còn muốn đưa thêm trẻ mồ côi rời Sài Gòn nhưng bất thành. Không nản, Daly gặp Cha Robert Crawford, người cai quản một cô nhi viện dành cho trẻ tàn tật tại Sài Gòn; và cuối cùng, ngày 21-4-1975, toàn bộ 305 trẻ em cùng người lớn tại cô nhi viện trên đã được sơ tán từ Sài Gòn đến Oregon. Nhóm trẻ cuối cùng mà World Airways di tản khỏi Sài Gòn đã được đưa đến Oakland ngày 25-4-1975. Tổng cộng, World Airways thực hiện bốn chuyến bay với hơn 850 trẻ mồ côi…
Một buổi sáng, khi Kenneth Healy ở văn phòng World Airways tại Oakland, một thanh niên bước vào. Đứng trước bàn giấy Healy, anh thanh niên hỏi: “Ông có nhận ra tôi?”. “Không” – Healy lắc đầu. “Tôi chính là một trong những bé mồ côi trên chuyến bay của ông. Tôi đến đây để cảm ơn ông”. Healy đứng lên bắt tay cậu thanh niên. Sau cuộc nói chuyện một giờ với cậu thanh niên, Healy ngồi thừ trên ghế, tự hỏi mình có thể thực hiện điều tương tự lần nữa hay không. Chỉ cần một giây, Healy đã có câu trả lời: Được, ông sẽ làm được, nếu người ta cần, và nếu bây giờ ông còn có thể bay… Với Edward J. Daly, lịch sử đã ghi nhận ông như một người hùng thời chiến, dù ông không cầm súng mà chỉ thể hiện tinh thần nhân đạo. Mất năm 1984, ông đã không thể cùng đoàn trẻ mồ côi ngày nào trở lại Việt Nam cùng Bill Keating và Kenneth Healy vào tháng 6-2005…
Rất nhiều tờ báo, kể cả báo nước ngoài, đã nhầm lẫn và sai sót khi dùng từ “babylift” để chỉ chiến dịch sơ tán trẻ mồ côi của World Airways. Babylift là tên gọi chính thức một chương trình của Chính phủ Mỹ, được thực hiện với ngân sách nhà nước (2 triệu USD) sau khi Nội các Gerald Ford chịu nhiều sức ép dư luận, đặc biệt từ giáo hội và Hồng y New York Terrence Cooke, yêu cầu khẩn cấp sơ tán trẻ mồ côi Việt Nam – ở bối cảnh mà một công ty hàng không tư nhân như World Airways đã ra tay trước. Trong khi đó, World Airways thực hiện chiến dịch sơ tán trẻ mồ côi bằng ngân sách riêng và từ đóng góp của các tổ chức từ thiện, không dính dáng gì đến “Chiến dịch Babylift” của Chính phủ Mỹ. Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn thời điểm đó, Graham Martin, thoạt đầu thậm chí còn gây khó dễ cho World Airways. Một ngày sau khi World Airways bắt đầu chiến dịch sơ tán, ngày 3-4-1975 tại Washington DC, Tổng thống Ford mới loan bố kế hoạch mang tên “Babylift Operation”, được quân đội Mỹ trực tiếp thực hiện.
Theo M. Kim
PetroTimes
Cựu binh Mỹ vẫn ám ảnh với chiến tranh Việt Nam sau 40 năm
Sonny Sowell, một cựu chiến binh Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam, chia sẻ rằng cho đến nay ông luôn bị ám ảnh với những ký ức khốc liệt của cuộc chiến.
Cựu binh Mỹ Sonny Sowell, 66 tuổi, bên cạnh bức ảnh năm 21 tuổi trong quân phục. (Ảnh: Rrstar)
Sonny Sowell, hiện nay 66 tuổi, từng phục vụ quân đội Mỹ trong 2 năm. Ngày 22/4/1968, ông đăng ký đi nghĩa vụ và được điều tới Fort Polk, Louisiana, trong 8 tuần để huấn luyện cơ bản trước khi được chuyển tới miền Nam Việt Nam. Ông ra quân ngày 22/4/1970. Và từ đó trở đi, ông Sowell chưa bao giờ có một giấc ngủ ngon.
"Chúng tôi luôn phải ngủ trong tình trạng một mắt nhắm, một mắt mở. Chúng tôi có người canh gác, nhưng bạn chẳng bao giờ thực sự muốn ngủ được. Bạn sẽ nghĩ nếu ngủ, có thể sẽ thức dậy với một con dao găm trên bụng. Suy nghĩ đó ám ảnh bạn. Đến giờ tôi vẫn thường phải đến gặp bác sĩ tâm lý. Đã 40 năm và thứ cảm giác đó vẫn hiện hữu", Sowell nói về những ký ức thời chiến.
Ông Sowell đã được chẩn đoán mắc các bệnh bạch cầu, tiểu đường và rối loạn thần kinh, những căn bệnh mà các bác sĩ của ông cho là có liên quan đến chất độc màu da cam mà quân đội Mỹ rải xuống Việt Nam để phá rừng. "Chúng tôi ở ngay đó khi họ phun thứ chất độc hóa học ấy. Nhưng chúng tôi không biết đó là gì", ông nói.
Sowell được điều động đến vùng châu thổ sông Mekong, cách Sài Gòn 80 km về phía nam. Từ giây phút bước xuống xe, ông đã biết rằng khoảng thời gian này sẽ cực kỳ khó khăn. "Ấn tượng đầu tiên của tôi khi đến Sài Gòn là "Ôi trời, mình sẽ phải sống trong cảnh này 2 năm tới sao?", ông chia sẻ.
Sowell cho biết điều kiện sống của ông rất bi đát. Trong khi ở căn cứ, trung đội của ông ở trong những lán trại nhỏ có ngói rơm. Khi đi làm nhiệm vụ, ông và đồng đội phải ngủ trong những đường hào và hầm vốn được dùng để ngăn lũ lụt.
Ông Sowell cho biết họ đã sử dụng những chiếc ấm làm bồn vệ sinh và mỗi tuần phải đốt rác thải một lần. Đôi khi, những mảnh súng cối bay ngay cạnh doanh trại, và họ phải nháo nhác tìm chỗ trốn trong khi chưa mặc xong quân phục. Nhưng nỗi sợ hãi lớn nhất chính là lũ muỗi. "Chúng như thể muốn ăn tươi nuốt sống bạn", ông nhớ lại.
Sowell từng suýt chết 2 lần khi tham chiến tại Việt Nam, một con số mà ông nghĩ là quá ít.
Một lần, Sowell được lệnh giải cứu một đồng đội bị thương. Ông phải vừa cõng người bạn trên lưng vừa bò sát đất, băng qua những ruộng lúa khi ngay trên đầu là làn đạn dày đặc.
"Tôi có thể nhìn thấy những vệt đạn bay về phía mình, nhưng thật may tôi không bị bắn trúng. Bạn chỉ còn biết cố gắng giúp đỡ nhau vì ý nghĩ "biết đâu lần sau người cần giúp đỡ có thể là mình".
"Trải nghiệm của tôi chẳng là gì so với việc chứng kiến rất nhiều người khác bị thổi bay. Họ đạp trúng bẫy mìn. Tôi đã chứng kiến rất nhiều cảnh tượng như vậy. Và nhiều cảnh tưởng khác bạn không thể tưởng tưởng nổi".
Mặc dù đau buồn trước cái chết của những người đồng đội thân quen, Sowell nói rằng ông đã cố gắng cầm cự để sống sót.
Kể cả bây giờ, Sowell không thể xem được những bộ phim chiến tranh, đặc biệt là những thước phim mô tả chiến tranh Việt Nam. Ông và đồng đội chưa bao giờ hoàn toàn hiểu vì sao họ lại phải ở đó.
Nhưng dù mơ hồ về mục đích của cuộc chiến, và dù luôn bị ám ảnh với những ký ức kinh hoàng, Sowell luôn có suy nghĩ tích cực về trải nghiệm của bản thân. Ông nâng niu những kỷ niệm được ăn cơm rang tôm tại Sài Gòn cùng với bạn bè, chơi bài trong doanh trại. "Đó gần như một phương pháp rèn luyện. Đó là một trải nghiệm xương máu. Nó khiến bạn trưởng thành", ông chia sẻ.
Thoa Phạm
Theo Dantri/ Rrstar
Những "em bé" babylift tại Canada khắc khoải tìm lại nguồn cội Việt Được đưa sang Canada trong chiến dịch không vận trẻ em (babylift) khi còn rất nhỏ, nhiều em bé Việt đã được nuôi nấng trưởng thành và có cuộc sống sung túc. Tuy vậy, nỗi khắc khoải tìm lại cội nguồn nơi quê nhà vẫn khiến họ đau đáu khôn nguôi. Nằm trong số gần 3000 trẻ được di tản khỏi miền Nam...