Cô gái mất khả năng làm mẹ vì phát hiện ung thư trễ
Cô gái 20 tuổi, chưa lập gia đình, vài tháng nay đau bụng lâm râm, bụng to dần, bác sĩ chẩn đoán ung thư buồng trứng giai đoạn muộn.
Ảnh minh họa
Bác sĩ Nguyễn Văn Tiến, Trưởng Khoa Ngoại phụ khoa, Bệnh viện Ung bướu TP HCM, ngày 10/4 cho biết cô gái quê Bình Định vào viện donđột ngột đau bụng dữ dội, toát mồ hôi, mệt lả người. Bác sĩ xác định bệnh nhân đang dần sốc mất máu đe dọa tính mạng, khả năng do vỡ bướu buồng trứng gây xuất huyết.
Các ca mổ khác đã lên lịch được tạm hoãn để ưu tiên phẫu thuật cho bệnh nhân này. Kíp mổ ghi nhận buồng trứng hai bên đang xuất huyết, số lượng máu trong ổ bụng khoảng hai lít, bệnh nhân đang tình trạng tụt huyết áp.
Sau khi bồi hoàn máu mất, huyết áp tăng lên, bệnh nhân được cắt toàn bộ tử cung và hai buồng trứng, mạc nối lớn… “Dù cứu sống trong gang tấc nhưng cô gái trẻ sẽ vĩnh viễn mất chức năng làm mẹ vì phát hiện ung thư buồng trứng quá trễ”, bác sĩ Tiến nói.
Nếu phát hiện bệnh trong giai đoạn sớm, bác sĩ sẽ có nhiều lựa chọn bảo tồn khả năng sinh sản cho bệnh nhân.
Ngày 10/4, sau mổ một ngày, bệnh nhân tỉnh táo, vết mổ khô, sinh hiệu ổn, dự kiến sẽ tiếp tục được hóa trị.
Theo bác sĩ Tiến, ung thư buồng trứng có thể gặp ở mọi lứa tuổi, thường xảy ra ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản hoặc những người bước vào thời kỳ mãn kinh. Bệnh cũng ghi nhận ở trẻ em với tỷ lệ thấp. Hiện nay, tác động từ môi trường bị ô nhiễm, thức ăn chứa hóa chất độc hại, chế độ sinh hoạt, biến đổi gene khiến tỷ lệ người mắc bệnh này ngày càng tăng.
Video đang HOT
Ung thư buồng trứng giai đoạn sớm thường không có dấu hiệu hoặc có rất mơ hồ khó xác định, như cảm giác khó chịu vùng bụng chậu, đầy hơi, ăn không tiêu, bụng to, tiểu rắt… Ung thư buồng trứng giai đoạn sớm phần lớn phát hiện nhờ khám sức khỏe. Khoảng 75% bệnh nhân phát hiện ở giai đoạn trễ, khi ấy có các triệu chứng đau bụng, sụt cân, nôn ói, ăn không ngon…
Ung thư buồng trứng hiện chưa rõ nguyên nhân nên khó phòng ngừa. Nhóm nguy cơ cao là người có đột biến gen, đột biến tế bào mầm, gia đình có người mắc các loại ung thư vú, ruột, tuyến giáp, phổi. Nguy cơ cao cũng ở người có buồng trứng hoạt động nhiều, tức rụng trứng liên tục, có kinh sớm, mãn kinh trễ, không có giai đoạn sinh nở để buồng trứng nghỉ ngơi.
“VSử dụng thuốc tránh thai, nhất là khi đã uống trong vài năm, đã được chứng minh là làm giảm nguy cơ ung thư buồng trứng tới 50% so với những phụ nữ chưa bao giờ sử dụng thuốc tránh thai”, bác sĩ Tiến chia sẻ. Mang thai và cho con bú, sinh nhiều con trước 26 tuổi cũng giảm nguy cơ ung thư buồng trứng.
Bác sĩ Tiến phân tích, để biết chắc chắn có bị ung thư buồng trứng hay không phải trải qua phẫu thuật đánh giá, lấy mô bướu làm giải phẫu bệnh, thực hiện bằng mổ hở hoặc mổ nội soi. Nếu kết quả sinh thiết lạnh là ác tính, phác đồ điều trị bao gồm cắt tử cung, hai phần phụ và mạc nối lớn. Trường hợp trễ, bướu lan tràn, bác sĩ mổ cố gắng lấy càng nhiều bướu càng tốt. Điều trị sau mổ như hóa trị phụ thuộc vào giai đoạn bệnh và tình trạng bệnh nhân. Ở giai đoạn sớm có khi không cần hóa trị.
Sau điều trị bệnh nhân phải tái khám thường xuyên để kiểm tra khả năng tái phát. Thông thường trong 2 năm đầu sau điều trị cần tái khám mỗi 2-4 tháng, 3-5 năm tái khám mỗi 6 tháng, trên 5 năm mỗi năm tái khám một lần. Nếu ung thư gieo rắc hoặc tái phát, tùy tình huống cụ thể, bệnh nhân sẽ được mổ lại hoặc hóa trị.
Vẫn mang thai và sinh hoạt vợ chồng sau khi bị ung thư cổ tử cung
Trước kia, bệnh nhân bị ung thư cổ tử cung đồng nghĩa phải cắt bỏ hết cổ tử cung và hầu như không thể mang thai, quan hệ tình dục cũng khó khăn. Nhiều bệnh nhân phải ly hôn sau khi điều trị ung thư nhưng giờ đã khác.
Có con được sau phẫu thuật
Một cặp vợ chồng trẻ tìm tới bác sĩ Nguyễn Văn Tiến - trưởng khoa Ngoại 1, Bệnh viện Ung bướu TP.HCM với tâm trạng ủ rũ. Người vợ bị ung thư cổ tử cung giai đoạn sớm. Cả hai mới lập gia đình cần sinh một đứa con.
Bệnh nhân đã được tầm soát để sinh con và làm sinh thiết tại một bệnh viện sản phụ khoa lớn kết quả thật bất ngờ với vợ chồng cô gái: ung thư cổ tử cung giai đoạn IB với bướu 1cm.
Theo yêu cầu phải cắt hết tử cung. Tuy nhiên, bệnh nhân đã tìm hiểu và biết có thể phẫu thuật bảo tồn nên cô gái tìm đến khoa ngoại phụ khoa xin bằng mọi giá bảo tồn cho vợ chồng có một đứa con.
Trường hợp này, bác sĩ Tiến cho biết may mắn cho bệnh nhân, bệnh ung thư cổ tử cung của cô đáp ứng tất cả những yêu cầu nghiêm ngặt để mổ bảo tồn và đáng mừng hơn nữa bệnh nhân này được áp dụng một kỹ thuật phẫu thuật mới mà hiện nay mới thực hiện lần đầu tại Việt Nam: phẫu thuật bảo tồn sinh sản bằng phương pháp khoét chóp cổ tử cung rộng qua ngả âm đạo và phẫu thuật nội soi nạo hạch chậu hai bên.
Với loại phẫu thuật này sẽ làm tăng khả năng thụ thai sau này từ 50-60% lên tới 80-90% vì cổ tử cung còn rất dài đảm bảo giữ được thai trong quá trình mang thai. Về mặt ung thư vẫn bảo đảm an toàn tuyệt đối: bướu kích thước
Không chỉ phẫu thuật bảo tồn âm đạo, bác sĩ Tiến cho biết hiện nay khoa ngoại 1 đã thực hiện thành công gần vài chục trường hợp nối dài âm đạo cho những phụ nữ trẻ trong trong thời kỳ còn hoạt động tình dục không may bị ung thư phụ khoa mà phải cắt đi cả tử cung và một nửa âm đạo làm cho đời sống vợ chồng không còn như trước.
Bác sĩ Tiến cho biết có rất nhiều hoàn cảnh thương tâm, chia ly của những cặp vợ chồng, tình nhân không phải vì bệnh tật mà vì lý do người bạn đời không thể đáp ứng được nhu cầu sinh lý.
Thấu hiểu những việc tưởng chừng như rất nhỏ không làm ảnh hưởng đến quá trình điều trị ung thư, nhưng thật ra đây là vấn đề quan trọng trong phác đồ điều trị toàn diện.
Hiện tại trên chục bệnh nhân đã được phẫu thuật và rất hài lòng, đặc biệt là những cặp vợ chồng trẻ.
Bác sĩ Tiến cho biết tương lai không những phẫu thuật này chỉ thực hiện trên bệnh nhân ung thư phụ khoa mà còn có thể nhận phẫu thuật cho bệnh nhân đã bị cắt ngắn âm đạo trước đây.
Quyết tâm không những điều trị khỏi bệnh, điều trị kéo dài tăng tỉ lệ sống còn của người bệnh ung thư phụ khoa mà còn nâng cao chất lượng sống giúp cho người bệnh và gia đình giảm bớt phần nào những đau thương mất mát mà người phụ nữ phải gánh chịu. Đó là tâm quyết của những người làm công tác điều trị ung thư phụ khoa.
Ca phẫu thuật của bác sĩ Tiến cho bệnh nhân ung thư cổ tử cung
Thủ phạm gây ung thư cổ tử cung
Bác sĩ Tiến cho biết ung thư cổ tử cung là ung thư thường gặp ở phụ nữ, đứng hàng thứ 2 sau ung thư vú. Tại Việt Nam, ước tính cứ 100.000 phụ nữ thì có 20 trường hợp mắc bệnh ung thư cổ tử cung và 11 trường hợp tử vong. Với những tiến bộ của y khoa hiện đại, bệnh này được chữa khỏi gần 100% các trường hợp nếu bệnh được phát hiện sớm. Tuy nhiên, nếu không được phát hiện sớm, ung thư cổ tử cung lại rất khó chữa.
Thủ phạm hàng đầu gây ung thư cổ tử cung là nhiễm virus HPV. Một số yếu tố được xem là tăng nguy cơ nhiễm HPV và phát triển ung thư cổ tử cung như:
Phụ nữ quan hệ tình dục sớm (trước 18 tuổi) hoặc quan hệ với nhiều người.
Dùng thuốc tránh thai kéo dài.
Sinh đẻ nhiều (từ trên 4 lần); hút thuốc lá;
Tình trạng suy giảm miễn dịch như nhiễm HIV, mắc các bệnh lây qua đường tình dục, đặc biệt là viêm sinh dục do nhiễm Trichomonas, Chlamydia trachomatis, Herpes simplex virus type 2 (HSV2)...
Các yếu tố khác như: nghèo nàn, lạc hậu, vệ sinh kém, thực phẩm nghèo chất dinh dưỡng (sinh tố A, acid folic, trái cây, rau tươi...).
Bác sĩ Tiến cho biết việc tầm soát sẽ giúp phát hiện sớm ung thư cổ tử cung, từ đó ngăn chặn tỷ lệ mắc và tỷ lệ tử vong do bệnh.
Phát hiện ung thư cổ tử cung giai đoạn 2 khi mang thai, bà mẹ quyết giữ con dù có mất mạng BS Nguyễn Văn Tiến - Trưởng khoa Ngoại 1, Bệnh viện Ung bướu TP.HCM cho biết ông vừa tiếp nhận điều trị cho một sản phụ vừa sinh xong chuyển sang điều trị ung thư cổ tử cung. Ca bệnh đặc biệt Theo BS Tiến đây là một cặp vợ chồng trẻ ở Miền Trung vào sinh sống tại Bình Dương, làm công...