Cô gái hái dâu thành người phụ nữ quyền lực nhất sử Việt
Xuất thân từ một cô gái hái dâu quê mùa, Ỷ Lan đã trở thành một trong những người phụ nữ quyền lực nhất trong lịch sử Việt Nam khi 2 lần thay vua lo việc triều chính, giúp đất nước hưng thịnh.
Ỷ Lan tên thật là Lê Thị Yến (cũng có sách ghi là Lê Thị Yến Loan hay Lê Thị Khiết), sinh năm 1044, là một cô gái hái dâu, chăn tằm ở làng Thổ Lỗi, ngoại thành Thăng Long thời Lý (nay là xã Dương Xá, huyện Gia Lâm, Hà Nội).
Theo sử cũ, mùa xuân năm 1063, vua Lý Thánh Tông đã 40 tuổi mà vẫn chưa có con trai nên ông đi cầu tự khắp các miếu chùa. Khi vua đi qua chùa Dâu (phủ Thuận Thành), dân làng nô nức đến xem, riêng có người con gái 19 tuổi vẫn thản nhiên hái dâu bên cạnh gốc lan.
Vua cho gọi, hỏi vì sao không nghênh giá, nàng trả lời: “Thiếp là con nhà nghèo hèn, phải làm lụng đầu tắt mặt tối, phụng dưỡng cha mẹ, đâu có dám mong đi xem rước mà nhìn mặt rồng”. Vua cảm mến nên đã đưa Yến về cung, phong làm Ỷ Lan phu nhân (chữ “ỷ lan” nghĩa là tựa gốc cây lan).
Tượng Hoàng thái hậu Ỷ Lan ở chùa “Linh Nhân Từ Phúc Tự” tại Gia Lâm, Hà Nội. Ảnh: Panoramio
Việc này, Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Tục truyền, vua (Lý Thánh Tông) cúng khấn cầu tự chưa thấy hiệu nghiệm, mới đi chơi khắp chùa quán. Xa giá đi đến đâu, con trai con gái đổ xô đến xem không ngớt, duy có một người con gái hái dâu cứ đứng tựa trong bụi cỏ lan. Vua trông thấy, gọi đưa vào cung, được vua yêu phong làm Ỷ Lan phu nhân…”
Ỷ Lan không trau chuốt nhan sắc để chiếm cảm tình của vua mà quan tâm đến việc triều đình. Bà khổ công học hỏi, miệt mài đọc sách nên chỉ trong thời gian ngắn đã hiểu biết uyên thâm về nhiều mặt, khiến mọi người kinh ngạc, bái phục.
Ba năm sau, Ỷ Lan sinh được hoàng tử lấy tên là Càn Đức (tức vua Lý Nhân Tông sau này). Vua càng thêm yêu và phong Ỷ Lan làm Nguyên phi – đứng đầu các cung phi, chỉ sau hoàng hậu, còn con trai được lập làm thái tử.
Năm 1069, vua Lý Thánh Tông đem quân đi đánh Chiêm Thành ở phía Nam, dù trong triều có Tể tướng Lý Đạo Thành và hoàng hậu Thượng Dương, nhưng vua chỉ tin tưởng giao quyền nhiếp chính cho Nguyên phi Ỷ Lan, nghĩa là bà được toàn quyền quyết định khi vua vắng mặt.
Ra trận, Thánh Tông đánh mãi không được, bèn lui binh. Khi đem quân về đến châu Cư Liên (Tiên Lữ, Hưng Yên), thì nghe tin Nguyên phi Ỷ Lan trị nước rất giỏi, khiến dân hòa hiệp, cõi nước thanh bình. Dân yêu mến, tôn bà là “Quan Âm”. Thánh Tông nói: “Nguyên phi là đàn bà còn làm được như thế, ta là nam nhi lại chẳng được việc hay sao”. Nói rồi cho quân quay lại đánh tiếp và thắng trận giòn giã.
Cồng cụm đền chùa nơi tưởng niệm Hoàng Thái hậu Ỷ Lan. Ảnh: Panoramio
Năm 1072, vua Lý Thánh Tông đột ngột qua đời, thái tử Càn Đức lên ngôi mới 7 tuổi. Triều Lý không tránh khỏi rối ren. Nhưng khi Ỷ Lan trở thành hoàng thái hậu nhiếp chính thì nước Đại Việt nhanh chóng ổn định. Bà đã thi hành những biện pháp dựng nước, yên dân, khiến cho thế nước mạnh hẳn lên. Nhờ vậy, năm 1077 khi nhà Tống đem đại binh sang xâm lược, Ỷ Lan đã huy động cả dân tộc đoàn kết đánh bại quân thù.
Video đang HOT
Theo các nhà sử học, Thái hậu Ỷ Lan đã biết đặt lợi ích quốc gia lên trên hiềm khích cá nhân. Bà đã bỏ qua hiềm khích cũ và triệu Lý Đạo Thành (vốn theo phe Thái hậu Thượng Dương) về kinh giao trông lo việc nội chính để Lý Thường Kiệt tập trung đánh giặc ngoại xâm. Triều đình dưới quyền Ỷ Lan, văn có Lý Đạo Thành còn võ thì có Lý Thường Kiệt nên đất nước được hưng thịnh.
Năm 1103, Thái hậu Ỷ Lan đã phát tiền ở kho nội phủ để chuộc con gái nhà nghèo bị bán đi ở đợ cho nhà giàu rồi đem họ gả cho những người đàn ông góa vợ. Bàn về sự kiện này, sử thần ngô Sĩ Liên nói: “Con gái nghèo đến nỗi phải đợ mình làm mướn, con trai nghèo đến nỗi không vợ đó là cùng dân của thiên hạ. Thái hậu đổi mệnh cho họ cũng là việc nhân chính vậy!”
Theo sử cũ, Ỷ Lan không những sửa sang việc quốc chính, tăng cường quân đội, chăm lo mở mang dân trí mà còn ban hành nhiều điều ích quốc lợi dân. Bà khuyên vua làm điều thiện, trị điều ác. Bà hiểu những gian nan của nông dân khi không có trâu cày nên đã bảo vua phạt tội nặng những kẻ trộm trâu và giết trâu bừa bãi.
Bà không chỉ giỏi việc nước, mà còn đảm việc nhà khi đã đào tạo nên một vị minh quân như vua Lý Nhân Tông. Các bộ sử đều ghi lại việc đất nước phát triển phồn thịnh về mọi mặt dưới thời Lý Nhân Tông. Đặc biệt, vào năm 1075, triều đình cho mở khoa thi tam trường, kỳ thi đầu tiên ở nước ta. Một năm sau, triều đình lập Quốc Tử Giám, được xem là đại học đầu tiên của nước ta. Nền giáo dục Nho học của nước Việt bắt đầu từ đó.
Lễ hội truyền thống Đền Nguyên Phi Ỷ Lan và Kỷ niệm 950 năm ngày đăng quang Nguyên Phi Ỷ Lan được tổ chức trong 3 ngày 30, 31/3 và 1/4/2013. Ảnh:gialam.gov.vn
Tài chính trị kiệt xuất của Ỷ Lan có thể tóm lược qua câu trả lời của bà khi được vua Thánh Tông hỏi về việc trị quốc, được sử cũ chép lại như sau: “Muốn nước giàu dân mạnh, điều quan trọng là phải biết nghe lời can gián của đấng trung thần. Lời nói ngay nghe chướng tai nhưng có lợi cho việc làm. Thuốc đắng khó uống nhưng chữa được bệnh”.
Tuy nhiên, dù là người có công lớn đối với sự hưng thịnh của nước Đại Việt dưới triều Lý nhưng Ỷ Lan có một “vết nhơ” bị giới sử học phê phán và chính bản thân bà được cho là đã vô cùng sám hối về tội lỗi của mình nên đã tích đức, làm việc thiện và xây nhiều chùa đến tận cuối đời.
Đó là khi vua Lý Thánh Tông qua đời, thái tử Càn Đức (Lý Nhân Tông) lên ngôi, theo luật lệ, Thượng Dương hoàng hậu được phong làm Thái hậu, được cùng dự việc triều chính vì vua còn nhỏ. Còn Ỷ Lan, chỉ được tôn làm Thái phi, không được xen vào việc triều chính.
Nhưng với lợi thế là mẹ đẻ của vua, cùng sự trợ giúp của Thái úy Lý Thường Kiệt, bà đã khiến Nhân Tông ra chiếu chỉ phế truất Thượng Dương thái hậu và giam vào lãnh cung cùng 72 cung nhân khác. Đến khi phát tang chôn cất Thánh Tông hoàng đế, Thái hậu cùng các cung nhân bị buộc phải chôn theo. Sau đó, vua Nhân Tông phong cho Ỷ Lan làm Linh Nhân Thái Hậu nắm quyền buông rèm nhiếp chính.
Năm 1117, Thái hậu Ỷ Lan mất, thọ hơn 70 tuổi, được vua Nhân Tông dâng thụy hiệu là Phù Thánh Linh Nhân Hoàng Thái Hậu. Đền thờ chính của bà hiện ở Gia Lâm, Hà Nội, được đặt tại chùa “Linh Nhân Từ Phúc Tự” (dân gian thường gọi là “chùa Bà Tấm”), do bà xây dựng trước đó hai năm. Từ đó đến nay, cụm đền chùa này là nơi thờ Phật, và cũng là nơi tưởng niệm bà.
Trung Sơn
Theo VNE
4 công chúa ảnh hưởng nhất sử Việt
Huyền Trân, An Tư, Ngọc Vạn, Ngọc Khoa là 4 công chúa của các triều đại phong kiến Việt Nam được đánh giá ảnh hưởng nhất trong lịch sử.
Huyền Trân công chúa
Công chúa Huyền Trân (1287-1340) là con gái vua Trần Nhân Tông và hoàng hậu Thiên Cảm, em gái của Trần Anh Tông. Sách Việt sử giai thoạiviết: "Tháng 6 năm Bính Ngọ (1306), thực hiện lời hứa trước đó của Thượng hoàng Trần Nhân Tông, vua Trần Anh Tông đem Công chúa Huyền Trân gả cho Quốc vương Chiêm Thành là Chế Mân. Đáp lại, Chế Mân đã đem đất hai châu Ô và Lý - vùng tương ứng với phần phía Nam tỉnh Quảng Trị và toàn bộ tỉnh Thừa Thiên ngày nay - dâng cho Đại Việt làm sính lễ".
Một năm sau, Chế Mân chết, Huyền Trân công chúa được vua Anh Tông sai tướng Trần Khắc Chung cướp về (vì theo tục lệ Chiêm Thành, hễ Vua mất thì Hoàng hậu phải lên giàn hỏa thiêu để chết theo). Sau đó bà xuất gia rồi mất vào năm 1340. Dân chúng quanh vùng thương tiếc, tôn bà là Thần Mẫu và lập đền thờ cạnh chùa Nộm Sơn. Ngày bà mất sau này hàng năm trở thành ngày lễ hội đền Huyền Trân trên núi Ngũ Phong ở Huế.
Tượng thờ công chúa Huyền Trân tại Huế. Ảnh tư liệu
Câu chuyện về công chúa được truyền tụng trong dân gian, khiến Huyền Trân trở thành một trong những công chúa nổi tiếng nhất và ảnh hưởng nhất trong lịch sử Việt Nam. Các triều đại sau đều sắc phong bà là thần hộ quốc. Hoàng đế triều Nguyễn ban chiếu đền ơn công chúa "trong việc giữ nước giúp dân, có nhiều linh ứng", nâng bậc tăng là Trai Tĩnh Trung Đẳng Thần.
An Tư công chúa
An Tư công chúa, còn gọi là Thiên Tư công chúa, là con gái út của vua Trần Thái Tông (1218-1277). Bà cũng là em gái của Trần Thánh Tông và là cô ruột của Trần Nhân Tông. Cuộc đời của An Tư công chúa được sử Việt chép rất sơ lược, không rõ cả năm sinh năm mất.
Trong Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ chỉ ghi: "Thoát Hoan lên sông Nhĩ Hà, cột liền bè vào làm cầu, cho quân qua sông; quân ta theo hai bên sông lập đồn để cự lại, không được; ngày đã về chiều, quân giặc qua được sông vào kinh thành, vua sai đưa Thiên Tư Công chúa cho chúng, để thư nạn cho nước".
Đầu năm 1285, quân đội nhà Nguyên đã đánh tới Gia Lâm vây hãm Thăng Long. Thánh Tông Thái thượng hoàng và vua Trần Nhân Tông đi thuyền nhỏ ra vùng Tam Trĩ, còn thuyền ngự thì đưa ra vùng Ngọc Sơn để đánh lạc hướng đối phương nhưng quân Nguyên vẫn phát hiện ra. Ngày 9/3 cùng năm, thủy quân Nguyên đã bao vây Tam Trĩ suýt bắt được hai vua.
Để có thời gian củng cố lực lượng, Thượng hoàng Trần Thánh Tông bất đắc dĩ phải dùng đến kế mỹ nhân, dâng em gái út của mình cho tướng Thoát Hoan để tạm cầu hòa. Sau đó, quân Trần bắt đầu phản công, quân Nguyên đại bại. Trấn Nam vương Thoát Hoan, con trai của Hốt Tất Liệt đã phải "chui vào cái ống đồng để lên xe bắt quân kéo chạy" để về Tàu.
Năm 1943, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã viết cuốn tiểu thuyết lịch sử An Tư để nói về cuộc đời của nàng công chúa nhà Trần không được lịch sử nhắc đến.
Chiến thắng, hoàng tộc Trần làm lễ tế lăng miếu, khen thưởng công thần, nhưng không ai nói đến An Tư công chúa. Không rõ công chúa còn hay mất, được mang về Trung Quốc hay đã chết trong đám loạn quân. Chỉ có sách An Nam chí lược của Lê Tắc Trắc - một thuộc hạ của Trần Ích Tắc và Trần Kiện theo chủ chạy sang nhà Nguyên, sống lưu vong chép rằng: "Trước Thái tử (Thoát Hoan) lấy người con gái nhà Trần sinh được hai con...".
Giáo sư Phạm Đức Dương, Chủ tịch Hội Khoa học Đông Nam Á cho rằng nhà Trần trở thành triều đại vinh quang nhất trong lịch sử Đại Việt vì đã 3 lần chiến thắng quân Nguyên, đội quân đã từng làm mưa làm gió khắp Á - Âu. Trong chiến công chung đó người ta ghi nhận sự đóng góp, hy sinh thầm lặng của những người phụ nữ, trong số ấy có công chúa An Tư.
Theo ông, người con gái "lá ngọc cành vàng" ấy vì nợ nước đã ra đi không trở lại. Nhưng trớ trêu thay, sau chiến thắng quân Nguyên, tháng 7/1285, vua trở về kinh thành hân hoan khen thưởng những người có công, nhưng không ai nhắc tới công chúa An Tư.
Công chúa Ngọc Vạn
Công chúa (công nữ) Ngọc Vạn, họ tên đầy đủ là Nguyễn Phúc Ngọc Vạn, không rõ năm sinh, năm mất, là con gái thứ hai của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (ở ngôi: 1613-1635). Bối cảnh lịch sử lúc này, tuy nhà Lê vẫn là vương triều chính thống, tuy nhiên quyền lực thực sự nằm trong tay Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và Chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Vì vậy, một số tài liệu gọi bà là công nữ (con chúa), chứ không gọi là công chúa (con vua).
Năm 1620, Ngọc Vạn được gả cho vua Chân Lạp là Chey Chetta II và trở thành Hoàng hậu nước này với tước hiệu là Somdach Prea Peaccayo dey Preavoreac. Nhờ có cuộc hôn phối này mà tình giao hảo giữa hai nước được tốt đẹp, để chúa Nguyễn có thể dồn lực lại hòng đối phó với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, đồng thời cũng tạo thêm cơ hội cho người Việt mở rộng lãnh thổ về phía Nam.
Một bìa sách viết về công nữ Ngọc Vạn của tác giả Ngô Viết Trọng.
Chuyện công nữ Ngọc Vạn không được sử nhà Nguyễn đề cập đến, Giáo sư Phan Khoang trong cuốn Việt sử Đàng Trong viết rằng: "Việc này, sử ta không chép, có lẽ các sử thần nhà Nguyễn cho là việc không đẹp, nên giấu đi chăng? Nhưng nếu họ quan niệm như vậy thì không đúng. Hôn nhân chính trị, nhiều nước đã dùng, còn ở nước ta thì chính sách ấy đã đem lại nhiều lợi ích quan trọng....
Sử ta không chép, nhưng theo các sách sử Cao Miên do các nhà học giả Pháp biên soạn, mà họ lấy sử liệu Cao Miên để biên soạn, thì quả Chey Chetta II năm 1620 có cưới một công nữ con chúa Nguyễn. Giáo sĩ Borri, ở Đàng Trong trong thời gian ấy cũng có nói đến cuộc hôn nhân này".
Công chúa Ngọc Khoa
Ngọc Khoa tên đầy đủ Nguyễn Phúc Ngọc Khoa, là con gái thứ 3 của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên và là em gái công chúa Ngọc Vạn. Tương tự như số phận của chị gái, Ngọc Khoa cũng không được sử sách nhắc tới. Sách Đại Nam liệt truyện tiền biên, phần tiểu truyện của Ngọc Khoa cũng đề là "khuyết truyện".
Tuy nhiên, sách Nguyễn Phúc tộc thế phả, do chính Hội Đồng Nguyễn Phúc tộc viết lại, đã chép rằng: "Năm Tân Mùi (1631) bà (Ngọc Khoa) được đức Hy Tông (Sãi Vương) gả cho vua Chiêm Thành là Pôrômê. Nhờ có cuộc hôn phối nầy mà tình giao hảo giữa hai nước Việt Chiêm được tốt đẹp...".
Nhận xét về vai trò của Ngọc Vạn, Tiến sĩ Trần Thuận cho rằng cuộc hôn nhân này dù không được sử nhà Nguyễn ghi chép vì một lý do nào đó. Song, xét đến cùng đây là một cuộc hôn nhân mang màu sắc chính trị có tầm quan trọng đặc biệt đối với lịch sử dân tộc Việt Nam...
"Trong lịch sử dân tộc, từng có những người phụ nữ làm nên đại cuộc như Hai Bà Trưng, Bà Triệu... góp phần giành giữ nền độc lập cho Tổ quốc, và cũng từng có những người phụ nữ lặng lẽ hy sinh để cha anh làm nên nghiệp lớn như Huyền Trân, Ngọc Vạn, Ngọc Khoa... Chính họ là những con người làm nên lịch sử. Thật đáng kính thay!", Tiến sĩ Trần Thuận nhận xét.
Trung Sơn
Theo VNE
Chuyện công chúa lấy 2 vua làm chồng trong sử Việt Ngọc Bình là công chúa nhà Lê nhưng số phận đưa đẩy bà kết duyên cùng hai vị vua của hai triều đại đối địch là Cảnh Thịnh nhà Tây Sơn và Gia Long triều Nguyễn. Bối cảnh lịch sử Việt Nam thế kỷ 18 khá rối ren, nước Đại Việt nằm dưới quyền cai trị tượng trưng của vua Lê - có...