Cơ chế bảo hiểm tiề.n gửi thời kỳ cách mạng 4.0 tại Việt Nam
Cách mạng công nghiệp 4.0 và công nghệ số được nhìn nhận là cơ hội để tăng cường, nâng cao hiểu biết cho người gửi tiề.n, giáo dục tài chính thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng cũng như các phương tiện số hóa hiện đại bởi nó đang ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực, đặc biệt là tài chính – ngân hàng.
Với tư cách là một tổ chức tài chính Nhà nước, Bảo hiểm tiề.n gửi (BHTG) Việt Nam cũng từng bước nỗ lực để chứng minh vai trò thiết yếu trong việc bảo vệ người gửi tiề.n và góp phần đảm bảo an sinh xã hội trong thời đại cách mạng 4.0 hiện nay.
BHTG – công cụ hữu hiệu bảo vệ người gửi tiề.n
Tính đến thời điểm hiện tại, đã có 146 quốc gia trên thế giới thành lập tổ chức BHTG và có 83 tổ chức là thành viên Hiệp hội BHTG quốc tế (IADI). Với những ưu thế, tính chuyên nghiệp trong việc bảo vệ người gửi tiề.n và góp phần đảm bảo sự ổn định của hoạt động tài chính – ngân hàng, hệ thống tổ chức BHTG ngày càng phát triển mạnh mẽ trên thế giới.
BHTG có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ người gửi tiề.n, nâng cao niềm tin của công chúng đối với hệ thống tài chính, ngân hàng
Tại Việt Nam, Điều 3 Luật BHTG quy định: BHTG nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiề.n, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng.
BHTG có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ người gửi tiề.n, nâng cao niềm tin của công chúng đối với hệ thống tài chính, ngân hàng. BHTG chính là công cụ tài chính hữu hiệu mà Chính phủ sử dụng nhằm bảo vệ người gửi tiề.n, thay mặt Chính phủ bảo vệ tiề.n gửi của người dân. Trong trường hợp tổ chức tham gia BHTG đổ vỡ thì BHTG có trách nhiệm chi trả tiề.n gửi được bảo hiểm cho người gửi tiề.n. Chính sự bảo vệ này tạo được niềm tin cho người gửi tiề.n và.o hệ thống tài chính – ngân hàng nói riêng và vào Chính phủ nói chung.
Video đang HOT
BHTG góp phần đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh hoạt động ngân hàng. Người gửi tiề.n có thể yên tâm gửi tiề.n tại bất kỳ tổ chức tham gia BHTG nào. BHTG đã tạo ra một môi trường bình đẳng cho tất cả các tổ chức tín dụng (TCTD), đặc biệt là các TCTD có quy mô nhỏ bằng một hạn mức chi trả tiề.n bảo hiểm thống nhất. Chính điều đó đã thúc đẩy hoạt động tín dụng phát triển bình đằng, lành mạnh. Ngoài chức năng chi trả, BHTG Việt Nam còn có các nghiệp vụ kiểm tra, giám sát, tham gia kiểm soát đặc biệt… nhằm phát hiện, báo cáo Ngân hàng Nhà nước (NHNN) khi phát hiện rủi ro cũng như hỗ trợ tổ chức tham gia BHTG khắc phục, trở lại hoạt động bình thường.
BHTG góp phần thúc đẩy quá trình huy động vốn phục vụ phát triển kinh tế và ổn định xã hội. Để phát triển kinh tế và ổn định xã hội, Nhà nước sử dụng rất nhiều kênh thu hút vốn, trong đó tiề.n gửi tại các TCTD là một kênh vô cùng quan trọng. Từ việc BHTG tạo được niềm tin cho người gửi tiề.n sẽ giúp người dân tạo thói quen gửi tiề.n và.o ngân hàng thay vì các kênh đầu tư khác như đầu tư bất động sản, tích trữ vàng hoặc cất giữ tiề.n tại nhà.
BHTG không chỉ có vai trò quan trọng trong thời kỳ kinh tế ổn định mà còn góp phần không nhỏ trong quá trình xử lý khủng hoảng tài chính – ngân hàng. Khi có khủng hoảng thì hiện tượng rút tiề.n hàng loạt là điều gần như chắc chắn sẽ xảy ra. BHTG chính là công cụ đắc lực của Chính phủ để đối phó với với tình hình khó khăn này.
Cơ chế BHTG thời kỳ cách mạng 4.0
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) đem tới những đột phá trong ứng dụng công nghệ, thay đổi cách con người sống, làm việc, xác định lại các giá trị, tạo ra các sản phẩm và dịch vụ hoàn toàn mới. Trong bối cảnh đó, các ngân hàng có nhiều cơ hội tiếp cận và mở rộng cung ứng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng phù hợp đến những người dân hiện chưa có tài khoản ở vùng sâu, vùng xa với chi phí hợp lý, góp phần đẩy mạnh phổ cập tài chính quốc gia. Kết quả của khảo sát “Dich vụ ngân hàng, hành vi sử dụng của người dùng và xu hướng tại Việt Nam” của Tập đoàn Dữ liệu quốc tế (IDG Vietnam) năm 2017 cho thấy, các giải pháp về ngân hàng điện tử ( e-banking) đang ngày càng được sử dụng phổ biến hơn và được đán.h giá cao về tính tiện lợi, tiết kiệm thời gian, với 81% người dùng sử dụng các giải pháp e-banking so với 21% trong năm 2015.
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đem tới những đột phá trong ứng dụng công nghệ, thay đổi cách con người sống, làm việc, xác định lại các giá trị, tạo ra các sản phẩm và dịch vụ hoàn toàn mới
Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng đặt ra nhiều thách thức cho nền tài chính – ngân hàng Việt Nam trong thời kỳ hội nhập. Đó là khoảng trống chính sách đòi hỏi phải xây dựng quy định pháp lý mới đáp ứng nhu cầu cải cách công nghệ ngành ngân hàng, điều hành chính sách tiề.n tệ, kiểm soát dòng tiề.n gặp khó khăn trong bối cảnh tiề.n điện tử ngày càng được sử dụng và chấp nhận rộng rãi. Có thể nói rằng, khó khăn cho các nhà hoạch định chính sách tài chính – ngân hàng là làm sao để cân bằng giữa các quy định nhằm bảo đảm an ninh tiề.n tệ và đồng thời tạo cơ hội cho công nghệ tài chính (Fintech) phát triển.
Hoạt động BHTG trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 nói chung, sự phát triển của Fintech nói riêng chịu ảnh hưởng ở một số khía cạnh.
Ví dụ như, cần xác định tính khả thi của việc bảo hiểm cho tiề.n gửi điện tử. Gần đây, việc phát triển và đổi mới cung cấp dịch vụ tài chính đến người có thu nhập thấp chủ yếu thông qua các dịch vụ như ngân hàng không chi nhánh (branchless banking), thanh toán trên điện thoại di động hay tiề.n điện tử ( e-money). Đối với hoạt động BHTG, vấn đề đặt ra là liệu có nên coi tiề.n điện tử như sản phẩm tiết kiệm hay chỉ là một giao dịch chuyển khoản thông thường, cũng như trách nhiệm bảo hiểm trong quá trình diễn ra các giao dịch đó.
Hiện nay, tại nhiều quốc gia, tiề.n điện tử vừa được coi như tiề.n tiết kiệm cũng như phương tiện thanh toán, có phát sinh lãi tiề.n gửi và được bảo hiểm. Hiện nhiều quốc gia cũng đang nghiên cứu việc bảo hiểm cho tiề.n gửi đối với giao dịch ngân hàng không chi nhánh, gồm cả trên điện thoại di động. Tổng công ty BHTG Liên bang Mỹ (FDIC) đã áp dụng chương trình thí điểm về tài khoản tiề.n gửi an toàn năm 2011 cho các giao dịch điện tử đối với thẻ ghi nợ, hợp tác với đối tác như Tập đoàn Cities, Liên minh kinh tế toàn diện (AEI) và trung tâm cơ hội tài chính (LISC) để kết nối các dịch vụ cho người gửi tiề.n ở các tổ chức phi ngân hàng. Tại Việt Nam, tiề.n gửi thuộc đối tượng được BHTG, không phân biệt hình thức gửi tiề.n trực tuyến hay gửi tiề.n trực tiếp, đều được bảo hiểm.
Hơn thế nữa, tiềm năng trong việc sử dụng các hệ thống nghiệp vụ như tính phí, giám sát, chi trả là rất tích cực. Thông qua các chương trình, phần mềm trực tuyến, các nghiệp vụ BHTG có khả năng được thực hiện một cách nhanh chóng, chính xác, tổ chức BHTG cũng tiết kiệm được các nguồn lực hơn so với hình thức nghiệp vụ truyền thống. Trong đó phải kể đến một số ưu thế của việc áp dụng công nghệ thông tin như trích xuất thông tin về tiề.n gửi phục vụ chi trả, xác minh thông tin, hỗ trợ truyền thông chính sách BHTG, hỗ trợ giải quyết các vấn đề xuyên biên giới giữa các tổ chức BHTG v.v.
BHTG Việt Nam đã đưa vào hoạt động Hiện đại hóa hệ thống thông tin quản lý và hiện đại hóa ngân hàng (FSMIMS). Hệ thống FSMIMS tin học hóa toàn bộ các hoạt động nghiệp vụ của BHTG Việt Nam; giúp tổng hợp, phân tích và xử lý thông tin về tổ chức tham gia BHTG nhằm phát hiện và kiến nghị NHNN xử lý kịp thời những vi phạm quy định về an toàn hoạt động ngân hàng, rủi ro gây mất an toàn hệ thống. Từ đó, bảo vệ tốt quyền lợi của người gửi tiề.n, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng.
Hiện nay, người dân Việt Nam, đặc biệt người dân vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa hiểu biết tài chính khá thấp so với các nước trên thế giới và trong khu vực. Thiếu hiểu biết về tài chính khiến người dân ngại ngần sử dụng các dịch vụ tài chính chính thức, dễ rơi vào bẫy huy động vốn bất hợp pháp, tín dụng “đen” gây hậu quả nặng nề, bất ổn đời sống xã hội tại địa phương. Thời gian qua, BHTG Việt Nam tích cực tuyên truyền chính sách BHTG trên các phương tiện thông tin đại chúng; phối hợp tổ chức sự kiện tuyên truyền trực tiếp đến người dân với những nội dung thiết thực để họ dễ dàng tiếp cận chính sách BHTG. BHTG Việt Nam cho biết sẽ tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công nghệ hiện đại nhằm nâng cao hiểu biết của người gửi tiề.n trong thời gian tới.
Theo Congthuong.vn
Cơ sở xác định hạn mức bảo hiểm tiề.n gửi tại Việt Nam
Bà Trần Thị Len (Hà Nội) hỏi, hạn mức trả tiề.n bảo hiểm tại Việt Nam được xác định dựa trên những yếu tố nào?
Về vấn đề này, Bảo hiểm tiề.n gửi Việt Nam (BHTGVN) trả lời như sau:
Theo hướng dẫn của Hiệp hội BHTG quốc tế (IADI), hạn mức trả tiề.n bảo hiểm nên có giới hạn, đáng tin cậy và bảo hiểm cho phần lớn người gửi tiề.n nhưng phải đảm bảo có một tỷ lệ đáng kể giá trị tiề.n gửi không được bảo hiểm để góp phần duy trì kỷ luật thị trường và hạn chế rủi ro đạo đức.
Cụ thể, hạn mức trả tiề.n bảo hiểm tại Việt Nam được xác định dựa trên những yếu tố sau:
- Hạn mức trả tiề.n bảo hiểm là có giới hạn và bảo hiểm cho số đông người gửi tiề.n, đặc biệt là người gửi tiề.n nhỏ lẻ, nhưng phải đảm bảo có một tỷ lệ đáng kể giá trị tiề.n gửi tuân theo kỷ luật thị trường.
- Phù hợp tình hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam.
Theo Quyết định 21/2017/QĐ-TTg ngày 15/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ về hạn mức trả tiề.n bảo hiểm, từ ngày 5/8/2017, số tiề.n bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản tiề.n gửi được bảo hiểm theo quy định của Luật BHTG (gồm cả gốc và lãi) của một cá nhân tại một tổ chức tham gia BHTG tối đa là 75.000.000đ.
Như vậy, khi một khách hàng gửi nhiều khoản tiề.n khác nhau tại cùng một tổ chức tham gia BHTG thì các khoản tiề.n gửi này không được bảo hiểm độc lập. Hạn mức trả tiề.n bảo hiểm tối đa là 75.000.000đ (bao gồm cả gốc và lãi) áp dụng cho tất cả các khoản tiề.n gửi của một người tại một tổ chức tham gia BHTG.
Theo Chinhphu.vn
Hành xử như nhà đầu tư thông minh Kể từ đầu năm 2020, dịch Covid-19 đã và đang gây tác động mạnh đến nền kinh tế thế giới. Việt Nam là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng mạnh khi lần lượt các đối tác thương mại lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là tâm dịch. Số liệu thống kê về tình hình hoạt động sản xuất kinh...