CIEM: Tăng trưởng kinh tế năm 2018 có thể đạt mức 6,88%
Việt Nam bước vào quý III với những kỳ vọng và lo ngại đan xen, nhưng đã đạt được kết quả tốt trong quý III và dự báo sẽ đạt vượt mục tiêu kế hoạch đề ra cho cả năm 2018
Ảnh: Dũng Minh
Đó là nhận định của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương ( CIEM) đưa ra tại Hội thảo “Kinh tế Việt Nam: Tiếp tục khơi dòng cải cách và củng cố niềm tin đầu tư” do đơn vị này phối hợp với Chương trình Australia Hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam (Aus4Reform) tổ chức ngày 17/10.
GDP tăng tốt, CPI có diễn biến phức tạp
Theo số liệu công bố của CIEM, tốc độ tăng GDP đạt 6,88% trong quý III và 6,98% trong 9 tháng đầu năm, cao hơn cùng kỳ nhiều năm trước đó. Nhờ đó, áp lực thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong quý IV giảm đáng kể.
Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tiếp tục duy trì đà phục hồi, tăng 3,46% so với cùng kỳ nhờ một số yếu tố như giá bán sản phẩm ổn định, thị trường xuất khẩu được mở rộng, hiệu quả từ chuyển đổi cơ cấu ngành và việc triển khai nhiều hoạt động thúc đẩy nông nghiệp sáng tạo và đổi mới.
Khu vực công nghiệp – xây dựng lấy lại đà tăng trưởng vững chắc hơn, đạt 8,61%.
Tốc độ tăng GDP chung có thể cao hơn nếu đóng góp (điểm phần trăm) của phân ngành khai khoáng tương đương với mức trung bình của giai đoạn 2011 – 2015. Tốc độ tăng trưởng của khu vực dịch vụ đạt 6,87%, giảm so với cùng kỳ các năm 2016-2017.
Quý III chứng kiến những diễn biến phức tạp hơn của chỉ số giá tiêu dùng, giảm 0,09% trong tháng 7, sau đó tăng lần lượt 0,45% và 0,59% trong các tháng 8 và 9. CPI bình quân tăng 4,14% trong quý và 3,57% trong 9 tháng đầu năm.
Lãi suất, tỷ giá biến động
Lãi suất huy động VND tăng tại một số thời điểm trong quý III, chủ yếu với kỳ hạn dài. Trong khi đó, mặt bằng lãi suất không kỳ hạn, ngắn hạn biến động không nhiều.
Video đang HOT
Diễn biến lãi suất huy động chủ yếu chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố: Tín dụng tăng trưởng chậm; điều chỉnh lãi suất liên ngân hàng theo hướng ưu tiên giảm sức ép đối với tỷ giá VND/USD; cạnh tranh thị phần giữa các ngân hàng thương mại để chuẩn bị vốn cho nhu cầu tín dụng cuối năm và đầu năm 2019; gia tăng áp lực lạm phát tại một số thời điểm.
Dư nợ tín dụng tăng chậm hơn với dư nợ tín dụng tại thời điểm 28/9 tăng 2,4% so với cuối quý II và 10,4% so với cuối năm 2017.
Nguyên nhân là do Ngân hàng Nhà nước ưu tiên ứng phó với tác động từ leo thang chiến tranh thương mại Mỹ – Trung Quốc và mục tiêu kiểm soát lạm phát, thay vì thúc đẩy giải ngân tín dụng. Truyền thông về việc tiến tới chấm dứt tín dụng ngoại tệ. Quyết tâm tăng kỷ luật thị trường (trong đó có các chỉ số an toàn hoạt động của ngân hàng). Ngân hàng Nhà nước chưa nới lỏng tín dụng cho một số ngành (chứng khoán, bất động sản).
Tổng phương tiện thanh toán (M2) ước tăng 8,74% so với cuối năm 2017 và 0,33% so với cuối quý II. Thị trường ngoại hối biến động nhiều hơn.
Tỷ giá bán ra của ngân hàng thương mại khá ổn định đến giữa tháng 7, sau đó tăng lên ở mặt bằng mới và gần hơn với mức trần cho phép. Tỷ giá trên thị trường tự do luôn vượt tỷ giá của NHTM. NHNN đã kết hợp linh hoạt, hiệu quả các công cụ chính sách để giúp giảm áp lực đối với tỷ giá.
Nhu cầu đầu tư tiếp tục tăng
Đáng chú ý, báo cáo của CIEM cho thấy xu hướng gia tăng đầu tư tiếp diễn trong quý. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng 12,5% so với cùng kỳ 2017 và 21,6% so với quý II.
Tỷ lệ đầu tư so với GDP đạt 35,9% trong quý III và 34,0% trong 9 tháng đầu năm. Giải ngân vốn trái phiếu chính phủ trong 9 tháng đầu năm tăng tới 89,1%.
Khu vực ngoài nhà nước tiếp tục đóng góp chủ yếu vào mở rộng đầu tư, với mức tăng nhanh nhất và tỷ trọng lớn nhất. Trong khi đó, tốc độ tăng đầu tư của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thấp hơn so với khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước.
Kết quả dự báo của CIEM cho thấy, tăng trưởng kinh tế năm 2018 có thể đạt mức 6,88%. Tăng trưởng xuất khẩu cả năm dự báo ở mức 13,34%. Thặng dư thương mại dự báo ở mức 5,1 tỷ USD. Lạm phát bình quân năm 2018 đạt 3,97%.
Theo ông Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng CIEM, giai đoạn 9 tháng đầu năm đã giúp hình dung tốt hơn về bối cảnh và kết quả phát triển kinh tế – xã hội cả năm 2018.
“Tăng trưởng kinh tế không suy giảm liên tục qua các quý như lo ngại. Các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản diễn biến tích cực. Quan trọng hơn, Việt Nam bước đầu đã thể hiện được năng lực ứng phó với các biến động bất lợi (về tỷ giá, lãi suất, v.v.) từ thị trường thế giới truyền tải qua các kênh hội nhập kinh tế quốc tế.
Những chuyển biến ấy càng đáng lưu tâm hơn khi bối cảnh điều hành hiện tại (áp lực lạm phát trong nước và rủi ro suy giảm tổng cầu của kinh tế thế giới) khá giống – dù ở mức độ thấp hơn – so với giai đoạn cuối quý III, đầu quý IV/2008″, ông Cung nhận định.
Theo đánh giá của ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng ban Kinh tế vĩ mô (CIEM), trong thời gian từ nay tới cuối năm và tiếp tục sang năm 2019, bối cảnh thương mại và thị trường thế giới sẽ tiếp tục có nhiều biến động lớn, đặc biệt là diễn biến chiến tranh thương mại Mỹ – Trung Quốc và chính sách lãi suất của Mỹ, đặt ra không ít thách thức đối với Việt Nam trong điều hành kinh tế vĩ mô.
Trong bối cảnh này, Chính phủ nhấn mạnh yêu cầu củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, nhằm tạo thêm dư địa chính sách và cải thiện khả năng chống chịu trong bối cảnh kinh tế thế giới nhiều biến động. Song song là những nỗ lực vận động, thúc đẩy phê chuẩn các hiệp định thương mại tự do quan trọng và khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân.
“Để thực hiện các mục tiêu này, thông điệp nhất quán về việc ưu tiên chính sách là cần tiếp tục tập trung vào cải thiện nền tảng kinh tế vi mô và đổi mới hệ thống thể chế kinh tế theo hướng thân thiện hơn với sáng tạo và môi trường, gắn với xử lý hiệu quả những rủi ro trong môi trường kinh tế quốc tế đầy biến động”, ông Dương khuyến nghị.
Hiếu Minh
Theo tinnhanhchungkhoan.vn
Ngân hàng "vào mùa" tăng lãi suất
Nối tiếp đà tăng trong thời gian gần đây, cuộc đua tăng lãi suất huy động vẫn chưa dừng lại, đặc biệt khi cả 4 ngân hàng lớn đều đã nhập cuộc.
4 ngân hàng lớn đồng loạt tăng lãi suất
Bảng lãi suất của Ngân hàng Vietcombank mới đây cho thấy lãi suất tiết kiệm được nâng thêm 0,1- 0,3% ở một loạt kỳ hạn dưới 1 năm. Cụ thể, lãi suất kỳ hạn dưới 3 tháng của Vietcombank là 4,4%/năm, tăng 0,1 điểm phần trăm; kỳ hạn 3 và 6 tháng thêm 0,2 điểm phần trăm lần lượt là 4,8%/năm và 5,5%/năm. Các kỳ hạn trên 6 tháng giữ nguyên. Trong đợt tăng lãi suất gần đây, nhà băng này cũng đã tăng thêm 0,1 điểm phần trăm đối với lãi suất kỳ hạn trên 1 năm.
Tương tự Vietcombank, Agribank cũng nâng mạnh lãi suất ở kỳ hạn ngắn. Theo đó, lãi suất dưới 3 tháng đồng loạt là 4,5%/năm, tăng 0,2 - 0,3 điểm phần trăm. Lãi suất kỳ hạn 6 tháng nâng thêm 0,2 điểm phần trăm, lãi suất kỳ hạn 9 tháng thêm 0,1 điểm phần trăm. Trước đó, VietinBank và BIDV tăng thêm 0,2 điểm phần trăm với kỳ hạn ngắn.
Như vậy, đợt tăng lãi suất này, đặc điểm chung của nhóm ngân hàng có vốn Nhà nước là đều tập trung vào kỳ hạn ngắn. Hiện lãi suất kỳ hạn 1 - 2 tháng của các ngân hàng này đã tới 4,4 - 4,5%/năm, thay vì mức 4,1% duy trì một thời gian dài từ tháng 8 trở về trước; kỳ hạn 3 tháng tăng từ 4,6% lên 4,8%/năm; kỳ hạn 6 tháng tăng từ 5,3% lên 5,5%/năm. Ở kỳ hạn dài lãi suất hiện là 6,6% - 6,9%/năm và mức cao nhất đang là 7%/năm.
Nhiều ngân hàng điều chỉnh tăng lãi suất huy động kỳ ngắn hạn.
Câu chuyện tăng lãi suất không mới, vì nó đã rải rác được các ngân hàng thực hiện từ mấy tháng nay, và diễn ra khá phổ biến ở nhóm ngân hàng thương mại cổ phần. Với nhóm "big4", việc tăng lãi suất cũng đã được triển khai, nhưng chưa thể hiện sự ráo riết để mức "dàn hàng" như thời điểm này.
Tuy nhiên, nếu so sánh với mức lãi suất cùng kỳ hạn của khối "big4" với nhóm cổ phần thì mặt bằng lãi suất mới tăng vẫn đứng thấp hơn. Dẫn số liệu cho thấy, lãi suất kỳ hạn ngắn dù có tăng, nhưng biên độ tăng hẹp, ông Nguyễn Hoàng Minh- PGĐ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chi nhánh TP Hồ Chí Minh cho biết, hiện tốc độ huy động vốn tăng chậm hơn tốc độ cho vay, ví dụ trên địa bàn TP Hồ Chí Minh, đến cuối tháng 9, huy động chỉ tăng 7,2%, trong khi tăng trưởng tín dụng đã đạt 11,5%, chưa kể về kỳ hạn, nguồn tiền huy động trung và dài hạn chiếm 18%, trong khi tín dụng trung và dài hạn chiếm tới 53%.
Bởi vậy, mặt bằng lãi suất biến động phản ánh chính cung cầu thị trường. Hơn nữa, thông thường vào quý IV, nhu cầu vốn của nền kinh tế tăng cao, nên việc tăng lãi suất huy động cũng là điều dễ hiểu. Đáng chú ý, hiện lãi suất cho vay cũng được một số nhà băng điều chỉnh thêm 0,2 đến 1%, đưa lãi suất cho vay ngắn hạn lên mức 7-9%/năm, còn lãi suất dài hạn là 9-12%/năm.
Nói về nguyên nhân của việc tăng lãi suất, các chuyên gia kinh tế cho rằng điều này thể hiện việc dự báo xu hướng thị trường của các ngân hàng trước áp lực lạm phát trong thời điểm cuối năm 2018 và đặc biệt là 2019. Bên cạnh đó, do chịu ảnh hưởng từ cuộc chiến thương mại thế giới ngày càng căng thẳng, Trung Quốc sẽ chịu áp lực phá giá đồng Nhân dân tệ, qua đó làm áp lực lên các đồng tiền khác, bao gồm cả VNĐ cũng chịu ảnh hưởng. Việc đẩy lãi suất lên để nhằm nâng giá trị tiền đồng và qua đó hạn chế áp lực lên tỷ giá.
Thanh khoản hệ thống eo hẹp
Bộ phận phân tích của công ty Chứng khoán TP Hồ Chí Minh (HSC) trong báo cáo của mình cho rằng động cơ chính để các ngân hàng nâng lãi suất là thanh khoản trong hệ thống kém đi. Lượng tài sản ròng trên thị trường liên ngân hàng đã kém đi kể từ giữa tháng 7, với giá trị hiện tại khoảng 220.000 - 250.000 tỷ đồng, giảm xấp xỉ 100.000 tỷ đồng từ đỉnh vào đầu tháng 7.
Lãi suất liên ngân hàng kỳ hạn ngắn vẫn ở mức cao mặc dù đã giảm trong tháng 9. Còn PGS.TS. Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) thì dẫn số liệu Tổng cục Thống kê cho thấy tính tới thời điểm 20-9-2018, tăng trưởng tín dụng đạt mức 9,52% so với tháng 12-2017, thấp hơn so với cùng kỳ hai năm trước (2016: 10,46%; 2017: 11,02%).
Bên cạnh đó, tăng trưởng huy động vốn của các ngân hàng thương mại đạt 9,15%, cũng thấp hơn so với cùng kỳ hai năm trước. Chênh lệch lãi suất huy động-tín dụng là một trong những nguyên nhân dẫn tới hiện tượng thanh khoản hệ thống eo hẹp trong Quý III/2018. Ngoài ra, việc NHNN bán ra ngoại tệ để bình ổn tỷ giá cũng làm cho tổng phương tiện thanh toán tăng chậm hơn, dẫn tới thanh khoản eo hẹp.
"Một hệ quả tất yếu là lãi suất trên thị trường liên ngân hàng bị đẩy lên cao, đặc biệt trong khoảng thời gian từ giữa tháng Tám tới giữa tháng Chín. Lãi suất kỳ hạn qua đêm và một tuần nhiều thời điểm đã tiệm cận mức 4,70%, cao hơn khá nhiều cả dịp cận Tết Nguyên đán năm ngoái. Sự eo hẹp của thanh khoản hệ thống dẫn tới nhiều NHTM đã có động thái tăng lãi suất huy động...", TS. Thành phân tích.
Theo cand.com.vn
CIEM tiếp tục nâng dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam lên 6,88% Theo Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), việc duy trì đà tăng trưởng kinh tế trong 4 - 8 quý tới không quá khó nhưng cần quan tâm đến tính bền vững về sau. Ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng ban Ban Chính sách kinh tế vĩ mô thuộc CIEM. Dự báo mới nhất của Viện Nghiên cứu quản lý...