Chuyện về “người điều tra đĩa bay”
Công việc của ông là khám phá những bí mật từ những điều chưa biết. Nhưng sự tò mò của ông đã mở ra những cánh cửa mà chính phủ Mỹ luôn muốn đóng lại.
Đó là thông điệp cơ bản của một báo cáo được Bộ Quốc phòng Mỹ công bố tháng 3/2024. Báo cáo dài 63 trang về sự liên can của Chính phủ Mỹ với các hiện tượng bất thường không xác định (UAP) kết luận rằng Văn phòng giải quyết bất thường toàn miền (AARO) của Bộ Quốc phòng Mỹ “không tìm thấy bằng chứng nào cho thấy có sự hiện diện của công nghệ ngoài trái đất”.
AARO, theo The Guardian, là “một văn phòng chính phủ được thành lập vào năm 2022 để phát hiện và khi cần thiết, giảm thiểu các mối đe dọa từ “các vật thể dị thường trên không, dưới nước hoặc đa môi trường”.
Báo cáo cho thấy sự mâu thuẫn với nội dung phiên điều trần nổi bật nhất về UAP – trước đây được gọi là vật thể bay không xác định hoặc UFO – trong nhiều thập kỷ: lời khai tháng 8/2023 của “người thổi còi” Dave Grusch.
Josef Allen Hynek, ảnh chụp năm 1972.
Trong phiên điều trần gây xôn xao dư luận, Grusch, cựu thành viên Lực lượng đặc nhiệm UAP của Lầu Năm Góc, tuyên bố rằng ông đã được biết về “Chương trình thu hồi và phân tích vật thể bay không xác định kéo dài nhiều thập kỷ”. Nhưng những tuyên bố của ông ta chưa bao giờ được chứng minh, và mặc dù báo cáo mới không đề cập cái tên Grusch, nhưng nó đưa ra những lời giải thích cho những hiện tượng mà ông ta mô tả trong lời khai.
Đây không phải là báo cáo đầu tiên của chính phủ Mỹ bác bỏ những câu chuyện về những người ngoài hành tinh nhỏ bé màu xanh lá cây và những chiếc đĩa bay kỳ lạ của họ. Vậy tại sao người Mỹ cứ bám vào thuyết âm mưu du khách ngoài Trái đất? Đổ lỗi cho khoa học viễn tưởng, báo cáo của AARO viết:
“Có một chủ đề nhất quán trong văn hóa đại chúng liên quan đến câu chuyện đặc biệt dai dẳng rằng Chính phủ Mỹ hoặc một tổ chức bí mật của chính phủ đã phục hồi được một số tàu vũ trụ ngoài hành tinh và hài cốt người ngoài Trái đất, rằng Mỹ vận hành một hoặc nhiều chương trình nhằm phục hồi công nghệ (ngoài Trái đất) và rằng từ những năm 1940 Chính phủ Mỹ đã nỗ lực che giấu việc này với quốc hội và công chúng Mỹ.
AARO nhận ra rằng nhiều người thực sự tin vào việc này dựa trên nhận thức của họ về trải nghiệm trong quá khứ, trải nghiệm của những người khác mà họ tin tưởng hoặc các phương tiện truyền thông mà họ tin là nguồn thông tin đáng tin cậy và có thể kiểm chứng. Sự phổ biến của các chương trình truyền hình, sách, phim cũng như lượng lớn nội dung trên Internet và mạng xã hội tập trung vào các chủ đề liên quan đến UAP rất có thể đã ảnh hưởng đến nhận thức của công chúng về chủ đề và củng cố niềm tin này trong một bộ phận dân chúng”.
Internet đã giúp những người tò mò tiếp cận với lĩnh vực UFO học. Nhưng để hiểu đầy đủ sự hoài nghi hiện nay của công chúng đối với những lời giải thích do Chính phủ Mỹ đưa ra về người ngoài hành tinh, chúng ta phải xem xét người từng chịu trách nhiệm ủng hộ những câu chuyện “chính thức” này – và xem xét quá trình biến đổi của ông từ một người hoài nghi thành người ủng hộ nhận định rằng UFO tồn tại.
Allen Hynek là ai?
Josef Allen Hynek, sinh ngày 1/5/1910, bắt đầu quan tâm đến vũ trụ sau một lần bị ốm hồi còn nhỏ. Căn bệnh đã khiến cậu bé rời xa việc đi theo bước chân của mẹ, một giáo viên và cha, nhà sản xuất xì gà, để hướng tới vũ trụ. Tiểu sử của Hynek viết:
“Mối quan tâm tới các vì sao xuất hiện sau khi Hynek phải nằm liệt giường vì bệnh ban đỏ lúc 7 tuổi. Sau khi cậu đọc hết số sách dành cho trẻ em, mẹ Hynek đưa cho con trai một số sách giáo khoa của học sinh trung học và cuốn sách thiên văn học đã thu hút sự chú ý của cậu bé”.
Ngay từ khi còn nhỏ, niềm đam mê khoa học của Hynek đã pha trộn với thiên hướng bí ẩn và sở thích nghiên cứu các tư tưởng triết học.
Năm 1934, với tư cách là nghiên cứu sinh tiến sĩ, Hynek đã đóng góp vào việc quan sát siêu tân tinh Nova Herculis tại Đài thiên văn Perkins ở Ohio (siêu tân tinh là vụ nổ của một ngôi sao lớn sắp kết thúc vòng đời, là một trong những vụ nổ sáng nhất trong vũ trụ, có thể sáng hơn cả một thiên hà. Vụ nổ có thể nhìn thấy trong nhiều ngày, thậm chí nhiều tuần).
Năm 1936, Hynek gia nhập Khoa Vật lý và Thiên văn của Đại học bang Ohio. Nghiên cứu của ông trong 12 năm tiếp theo đã lên đến đỉnh cao khi ông được bổ nhiệm làm giám đốc Đài thiên văn McMillin của trường đại học.
Và đó là lúc đại diện chính phủ Mỹ gọi điện đến với một yêu cầu bất thường.
Video đang HOT
Hynek đã dính líu đến UFO như thế nào?
Trong những ngày cuối của Thế chiến II, các phi công chiến đấu Mỹ cho biết đã nhìn thấy những chiếc máy bay không giống bất kỳ chiếc máy bay nào từng gặp trong chiến đấu. Một số người mô tả “những ánh sáng chảy màu cam”, trong khi một phi công khác “nhìn thấy một vật thể màu đỏ, không có cánh, hình điếu xì gà”.
Những lời tường thuật này đã đến tai giới truyền thông. Nhưng những hiện tượng này cuối cùng được giải thích là do “hiện tượng tĩnh điện hoặc điện từ”.
Tuy nhiên, vụ việc liên quan đến phi công Kenneth Arnold vào ngày 24/6/1947 không được giải thích rõ ràng và quan trọng hơn là không dễ bị bác bỏ.
Tạp chí PopMech tường thuật vụ này như sau: “Trong khi tìm kiếm máy bay vận tải C-46 của thủy quân lục chiến, phi công giàu kinh nghiệm Kenneth Arnold đã chuyển hướng phi cơ khỏi đường bay ban đầu để tìm sườn phía tây nam của núi Rainier. Trong quá trình đó, Arnold trông thấy 9 vật thể “trông kỳ dị”, “hình tròn”, bay theo đội hình. Arnold ước tính chúng bay với tốc độ hơn 1.000 dặm một giờ. Khi ông ta báo cáo về vật thể lạ (và cho rằng chúng là một loại máy bay phản lực hoặc máy bay quân sự đang được thử nghiệm), Không quân Mỹ đã bác bỏ, rằng đó chỉ là ảo ảnh hoặc ảo giác”.
Arnold cho rằng việc quân đội bác bỏ những tuyên bố của mình là quá vội vàng, và ông tìm đến báo chí. Cuộc thảo luận của ông với phóng viên tờ Đông Oregonia đã dẫn đến việc phóng viên Bequette tạo ra thuật ngữ “đĩa bay” để mô tả những vật thể bất thường mà Arnold nói đã nhìn thấy.
Khi đó, bộ máy tình báo của Mỹ còn non trẻ. Cơ quan Tình báo Chiến lược (OSS) giải thể vào năm 1945, và đơn vị kế nhiệm, Cơ quan Tình báo Trung ương (CIA), thành lập 3 tháng sau khi Arnold báo cáo về việc nhìn thấy vật thể bay lạ. Nếu vật thể bí ẩn bay trong không phận là thật, khi đó Mỹ không có khả năng biết chúng đến từ đâu: Liên Xô? Kẻ thù nước ngoài? Người ngoài hành tinh?
Khi đó, điều quan trọng là phải điều tra xem liệu những tuyên bố này có đúng sự thật hay không và cũng quan trọng không kém là phải trấn an công chúng Mỹ đang lo lắng rằng không có lý do gì để báo động.
Không quân Mỹ đã tuyển dụng Hynek làm “cố vấn thiên văn” cho Dự án Sign, ra đời nhằm mục đích kiểm tra tính chính xác của các báo cáo. Trong suốt Dự án Sign, Hynek đã phân tích tỉ mỉ từng trường hợp bất thường xảy ra trên không và phân loại. Theo Biography, “có những quan sát thiên văn đơn giản, như sự xuất hiện của một thiên thạch, những quan sát được giải thích bằng khí tượng học, giống như một đám mây có hình dạng bất thường, và những quan sát ghi lại các vật thể nhân tạo, như bóng bay. Còn lại khoảng 20% số vụ việc hay hiện tượng không có lời giải thích rõ ràng”.
Các bài viết sau này của Hynek cho thấy rằng ông đã hy vọng có những cuộc điều tra bổ sung để giải quyết các câu hỏi được đặt ra bởi 20% trường hợp không giải thích được. Tuy nhiên, Chính phủ Mỹ lo ngại về những nỗi sợ hãi của công chúng trong Chiến tranh lạnh và khả năng những nỗi sợ hãi đó bị thao túng, đã muốn loại bỏ những câu hỏi như vậy. Và vì vậy, Dự án Sign đã biến đổi thành Dự án Grudge.
Dự án Grudge chỉ công bố một báo cáo vào tháng 8/1949. “Không có bằng chứng nào cho thấy các vật thể được báo cáo là kết quả của sự phát triển khoa học tiên tiến ở nước ngoài và do đó chúng không tạo thành mối đe dọa trực tiếp đối với an ninh quốc gia”, báo cáo xác định và khuyến nghị “giảm phạm vi điều tra và nghiên cứu các báo cáo về vật thể bay không xác định”.
Hynek, vỡ mộng với hướng đi của cuộc điều tra, mô tả Dự án Grudge là một “chiến dịch truyền thông PR”.
Dự án Blue Book
Kết luận của Dự án Grudge đã không dập tắt được mối lo ngại về thứ mà ngày nay mọi người gọi là “vật thể bay không xác định” hay UFO. Vì vậy, Không quân Mỹ đã tiếp tục các cuộc điều tra một lần nữa với Dự án Blue Book.
Không quân một lần nữa đưa Hynek vào Dự án Blue Book, cho phép ông tự mình tiến hành điều tra thực địa. Quan điểm của Hynek về các lý thuyết ngoài Trái đất liên quan đến những cảnh tượng không giải thích được đã phát triển từ những ngày ông tham gia Dự án Sign. Theo Biography, “mặc dù hoài nghi, nhưng Hynek nhận thấy các giả định của mình bị thách thức bởi sự hợp lý trong lời kể của các nhân chứng. Ông bắt đầu suy nghĩ, nghiên cứu nghiêm túc về những vật thể bay không xác định hay UFO này”.
Tuy nhiên, Hynek nhanh chóng nhận ra rằng ông được coi là một công cụ để bác bỏ những suy đoán về người ngoài hành tinh hơn là một nhà khoa học được giao nhiệm vụ khám phá những khả năng như vậy. Theo Biography, “vào những năm 1960, Hynek nhận thấy mình xung đột với sự giám sát của Không quân”.
Một sự cố đặc biệt đáng xấu hổ đối với Hynek xảy ra vào năm 1966, khi ông được cử đi điều tra “các báo cáo về ánh sáng bất thường” ở một số khu vực của bang Michigan trong nhiều đêm liên tiếp. Bị buộc phải tránh xa các lý thuyết ngoài Trái đất, Hynek phải công khai lên tiếng giải thích rằng những cảnh tượng người ta nhìn thấy có thể là do “khí ga đầm lầy”.
Thuật ngữ “khí ga đầm lầy” đã trở cụm từ dùng để giễu nhại phổ biến vào giữa những năm 60. Lãnh đạo phe thiểu số tại Hạ viện Mỹ và tổng thống tương lai Gerald Ford đã yêu cầu câu trả lời cho cuộc điều tra. Được kêu gọi làm chứng, Hynek đã tận dụng cơ hội này để tranh luận, đề xuất thực hiện một nghiên cứu sâu rộng, minh bạch về UFO.
Như vậy, Hynek đã vi phạm chỉ thị của Không quân Mỹ và chỉ 3 năm sau, Dự án Blue Book bị chấm dứt hoàn toàn. Nhưng điều đó không ngăn cản được nhà thiên văn học.
Sau dự án Blue Book
Không còn ràng buộc với Không quân, Hynek đã khởi xướng một chiến dịch công khai nhằm thúc đẩy cuộc điều tra khoa học về cái mà ông gọi là “ufology”. Nỗ lực này lần đầu tiên được hiện thực hóa trong cuốn sách năm 1972 của ông mang tên Trải nghiệm UFO: Một cuộc điều tra khoa học.
Hynek đã viết về suy nghĩ của ông trong việc nghiên cứu UFO, những quan sát của ông trong nhiều thập kỷ làm việc trong dự án Sign và Blue Book, cũng như phân tích các trường hợp “nhìn thấy UFO”, bao gồm cả những lần “nhìn thấy” ở xa và gần. Ông chia những báo cáo “nhìn thấy vật thể bay không xác định” thành ba loại.
Ở dạng thứ nhất, UFO được nhìn thấy trong một khoảng cách đủ gần để nhận diện một số chi tiết. Ở dạng thứ hai, UFO có tác dụng vật lý, chẳng hạn như thiêu rụi cây cối, khiến động vật sợ hãi hoặc khiến động cơ ôtô đột ngột ngừng hoạt động. Dạng thứ ba, các nhân chứng nói đã nhìn thấy những người ở trong hoặc gần UFO.
Hạng mục thứ ba là nguồn cảm hứng cho bộ phim kinh điển năm 1977 của đạo diễn lừng danh Steven Spielberg có tựa đề “Close Encounters of the Third Kind” (Gặp gỡ loại thứ ba: Giao tiếp với người ngoài hành tinh).
Hynek được cho là đã nhận tiền để làm cố vấn cho đoàn phim. Ông cũng xuất hiện trên các chương trình TV, diễn thuyết trong trường đại học và thậm chí còn trình bày về UFO trước Liên hợp quốc. Tác phẩm của ông đã truyền cảm hứng cho loạt phim truyền hình dài hai mùa phát sóng vào những năm 2010, được đặt tên là Dự án Blue Book.
Mặc dù vậy, Hynek chưa bao giờ hoàn toàn chấp nhận các thuyết âm mưu.
Di sản của Hynek
Năm 1986, năm Hynek qua đời, nhà lý luận về thuyết âm mưu George C. Andrews đã xuất bản “Người ngoài hành tinh giữa chúng ta”, một cuốn sách kết hợp các ý tưởng về UFO với những ý tưởng hiện có về âm mưu của chính phủ và các tổ chức bí mật. Trong tầm nhìn của Andrews về một âm mưu toàn cầu, ông tuyên bố người ngoài hành tinh đứng sau vụ sát hại Tổng thống John F. Kennedy.
Năm 1991, nhà lý luận thuyết âm mưu Bill Cooper đã kết hợp các lý thuyết của Andrews vào Behold a Pale Horse, một trong những cuốn sách được đọc rộng rãi về các âm mưu chính trị.
Di sản của Hynek có nguy cơ bị lu mờ bởi những lý thuyết cực đoan và mang tính chính trị của những nhà nghiên cứu UFO tự xưng xuất hiện sau ông. Tham vọng của ông là giúp ngành UFO học được công nhận là một lĩnh vực khoa học hợp pháp; tuy nhiên, sự gia tăng của các thuyết âm mưu xuất hiện sau ông đã khiến chính phủ Mỹ có thêm lý do để bác bỏ hoàn toàn chủ đề này.
Báo cáo mới của AARO cho biết rằng trong thời gian Hynek làm việc với Dự án Blue Book, “khoảng 75% người Mỹ tin tưởng chính phủ Mỹ “luôn luôn hoặc hầu hết thời gian làm điều đúng đắn”. Tuy nhiên, báo cáo lưu ý , kể từ năm 2007, con số đó chưa bao giờ lên trên 30%.
“Sự thiếu tin tưởng này có lẽ đã góp phần khiến một số bộ phận người dân Mỹ tin rằng chính phủ đã không trung thực về câu chuyện phi thuyền ngoài Trái đất”, báo cáo viết.
Cuộc chiến AI của Israel ở Gaza
Việc nhà nước Do Thái Israel triển khai trí tuệ nhân tạo (AI) ở Gaza đã đánh dấu một sự thay đổi đáng kể trong bối cảnh chiến tranh hiện đại.
Tác giả bài viết, Jonathan Fenton-Harvey, nhà báo kiêm nhà nghiên cứu chuyên về những vấn đề xung đột, địa chính trị và nhân đạo tại Trung Đông và Bắc Phi.
Dù có những tiến bộ trong việc dùng AI nhưng sự tàn phá nghiêm trọng nhà cửa và cơ sở hạ tầng ở Gaza (cùng với gióng lên tiếng chuông cảnh báo về tổng số người thiệt mạng hiện đã chạm mốc 2 vạn người, theo số liệu ngày 21/12/2023) đã làm gia tăng sự lo ngại sâu sắc về việc dùng tự động hóa và người máy trong các hoạt động chống nổi dậy. Trước đó là nhờ bài viết đăng trên tạp chí 972 và Local Call mang tính đột phá mà nhờ đó người ta biết đến vũ khí đi đầu của Israel là một hệ thống mới có tên là "haBsora" (Phúc Âm), nền tảng AI này được cho là làm tăng tốc việc lựa chọn mục tiêu để đánh bom ở Gaza cũng như theo dõi nhanh chóng các vị trí của dân quân Hamas, trong khi lại cung cấp ước lượng số người thiệt mạng trong cuộc tấn công.
Quả vậy, trong khi những hệ thống AI cũ hơn có thể tạo ra 50 mục tiêu/ngày, thì hệ thống Phúc Âm giờ đây có thể ước tính được việc quân đội Israel sẽ tạo ra 100 mục tiêu. Nhưng chính xác thì hệ thống này làm việc ra sao? Nói vắn tắt thì nó tạo ra các mục tiêu bằng một mô hình gọi là "suy luận xác suất" - một tính năng chủ chốt của thuật toán học máy. Về cơ bản thì những thuật toán dạng này sẽ phân tích một lượng lớn dữ liệu để xác định các mẫu. Hiệu quả của những thuật toán này phần đa phụ thuộc lớn cả vào chất lượng và số lượng dữ liệu mà chúng tạo ra. Các thuật toán dùng các mẫu để đưa ra những dự báo hoặc các đề xuất dựa trên khả năng xảy ra. Nếu một cá nhân có những đặc điểm giống với những người khác được nhận diện là lính tráng của địch thì hệ thống cũng sẽ dán nhãn cá nhân đó là địch. Quá trình này dựa trên khả năng hoặc xác suất rằng chúng có cùng trạng thái chứ không phải dựa trên sự chắc chắn tuyệt đối.
Hệ thống trí tuệ nhân tạo "haBsora" được Israel phát triển để nhận diện và tấn công các mục tiêu ở dải Gaza. Ảnh nguồn: New Arab.
Chiến lược AI của Israel
Hoạt động thu thập dữ liệu và thu thập thông tin quan trọng của Israel được xem là thành phần cốt lõi giúp làm nên chiến lược mới này. Nhà báo độc lập Antony Loewenstein kiêm tác giả cuốn sách "Phòng thí nghiệm Palestine", giải thích: "Trong thời gian qua Israel đã tích lũy đáng kể một lượng thông tin tình báo bằng cách dùng các trang thiết bị giám sát, máy bay không người lái (drone), nhiều điệp viên nằm vùng trong hàng ngũ Hamas, cũng như trong số những người Palestine vượt biên. Khối lượng tình báo đồ sộ này cho phép Israel tạo ra và bơm vào số lượng mục tiêu khổng lồ này". Khả năng lựa chọn mục tiêu để đánh bom của hệ thống Phúc Âm sâu sắc đến độ một cựu quan chức tình báo Israel phải thốt lên rằng đó là một "cỗ máy giết người khổng lồ". Theo cuộc điều tra riêng của nhà báo Loewenstein thì Phúc Âm cho phép quân đội Israel tiến hành các cuộc không kích nhắm vào nhà cửa dân cư, khi một thành viên Hamas sống ở đó, trên quy mô lớn, ngay cả những người là thành viên cấp dưới của Hamas.
Song những lời làm chứng của người Palestine lại cho thấy các cuộc không kích của Israel cũng nhắm vào những tòa nhà không hề có thành viên Hamas nào cư trú ở đó. Tiến sĩ Rob Geist Pinfold, diễn giả về hòa bình và an ninh tại Đại học Durham (Đông Bắc nước Anh) phân tích: "Việc sử dụng hệ thống nhắm mục tiêu mới bằng AI mang tên "haBsora" là một phần nguyên nhân gây ra tỷ lệ không kích cao như vậy của Israel ở dải Gaza trong cuộc chiến này. Từ lâu Israel đã thực hiện những cuộc tấn công kiểu đó nhưng lại cực kỳ thiếu thông tin để thực hiện điều đó theo một cách tương đối chính xác, vì thế mà việc dùng AI sẽ tăng cường tình báo cho Israel cùng những khả năng chiến đấu của họ. Loại AI này dùng tình báo hiện có để xác định chính xác những mục tiêu tiềm năng ở Gaza và lập bản đồ số lượng thương vong dân sự trên lý thuyết gây ra bởi cuộc tấn công vào mục tiêu đó. Tất cả những việc này đều được phân loại theo hệ thống đèn giao thông: màu đỏ có nghĩa là có quá nhiều thương vong cho thường dân Palestine để biện minh cho cuộc tấn công; màu xanh lá cây lại gợi ý điều ngược lại".
Để hỗ trợ việc này, Israel cũng đã hé lộ việc triển khai một hệ thống AI khác cùng với Phúc Âm, nó có tên là "Xí nghiệp lửa", hệ thống này dùng dữ liệu về những mục tiêu được quân đội phê duyệt để tính toán tải trọng đạn dược, ưu tiên và phân bổ hàng ngàn mục tiêu cho các loại máy bay và drone, cũng như đề xuất kế hoạch cho những lần đột kích tiếp theo. Việc Israel tham gia vào chiến tranh được AI hỗ trợ không phải là mới, khi quân đội nước này từng tuyên bố chiến đấu trong "cuộc chiến AI đầu tiên" dài 11 ngày ở Gaza vào tháng 5/2021, nhấn mạnh nỗ lực không ngừng của nhà nước Do Thái trong việc tích hợp công nghệ tiên tiến và siêu máy tính vào chiến lược quân sự của mình. Cùng lúc đó, các lực lượng Israel đã bắt đầu dùng A.I trong việc lựa chọn mục tiêu cho các cuộc không kích và lập kế hoạch hậu cần vào tháng 7/2023.
Nền tảng các hệ thống vũ khí tự động đang được quân đội Mỹ nghiên cứu và phát triển. Ảnh nguồn: Army University Press.
Những trăn trở đạo đức
Israel đang tìm cách tăng cường việc sử dụng chiến tranh tự động như đã được loan tin từ chính miệng ông Eyal Zamir, Tổng cục trưởng Bộ Quốc phòng Israel vào tháng 5/2023. Sự tích hợp này bao gồm việc thành lập một sư đoàn người máy quân sự chuyên dụng, cũng như tăng đáng kể nguồn ngân sách cho việc phát triển và nghiên cứu AI. Trọng tâm chính cho sáng kiến này là phát triển các nền tảng tấn công bầy đàn do AI điều khiển và những hệ thống chiến đấu tự động khác. Theo lời của ông Eyal Zamir thì vì sở hữu quân đội nhỏ về quân số trong khi lại ưu tiên vào tiến bộ công nghệ nên Israel cũng đang tìm kiếm cách lấp đầy khoảng trống bằng tham vọng trở thành nhà nước "đại cường AI". Nói cách khác, AI sẽ khiến quân đội hiệu quả và sát thương cao hơn, khi mà quân đội dùng những hệ thống từ xa và tự động để lựa chọn và tấn công mục tiêu.
"Rủi ro ở đây là hệ thống này tạo ra quá nhiều mục tiêu khiến việc giám sát của con người trở nên khó khăn hơn rất nhiều, dẫn đến nhiều quyết định đặc biệt hơn được đưa ra, và phần nào giải thích số lượng dân thường tử vong cao ở Gaza", tiến sĩ Rob Geist Pinfold giải thích thêm. Và trong khi nhiều người ủng hộ đang ca ngợi AI vì "đã làm được nhiều hơn với quân số ít hơn" trong chiến tranh khi tấn công mục tiêu chính xác hơn, giới hạn thương vong dân thường hơn, thì vẫn còn đó không ít trăn trở về chuyện đạo đức. Đó là còn chưa kể đến những khó khăn trong việc điều chỉnh những hệ thống quân sự dựa trên học máy. Nhà báo độc lập Antony Loewenstein trầm ngâm nói: "Israel và các đồng minh của họ cho rằng AI nâng cao độ chính xác trong những hoạt động của họ, vì thế hạn chế thương vong dân thường. Tuy nhiên có rất ít bằng chứng để chứng minh cho tuyên bố này".
Ông Loewenstein nói thêm: "Dựa trên những gì chúng tôi đã quan sát, mục tiêu chính trong chiến lược của Israel là gây thiệt hại nghiêm trọng hơn là chính xác, biến Gaza điêu tàn không thể sống được và buộc người dân phải lật đổ Hamas". Thực vậy, theo cuộc điều tra của tờ 972 thì các quan chức tình báo chóp bu của Israel đã chỉ thị cho các thuộc hạ của họ phải "thủ tiêu càng nhiều điệp viên Hamas càng tốt" trong khi lại nới lỏng mọi hạn chế xoay quanh việc gây hại thường dân Palestine. Chiến lược này (liên quan đến việc xác định chính xác phạm vi di động) thường đánh đổi độ chính xác để lấy tốc độ, dẫn đến thiệt hại tài sản thế chấp tiềm ẩn, đồng thời khơi dậy những cuộc tranh luận về đạo đức của AI dùng trong chiến tranh.
Ảnh minh họa về Trung tâm cung cấp AI mới sẽ được quân đội Israel xây dựng trong thời gian tới. Dự án trị giá 1,7 tỷ USD, cung cấp các công nghệ mới cho các công ty dân sự. Ảnh nguồn: Calcalistech / IDF .
Tương lai của chiến tranh
Việc dùng hệ thống Phúc Âm và các chiến lược tương tự của Israel đã thể hiện sự tiến bộ vượt trội trong việc tích hợp AI trong chiến tranh, một bước nhảy vọt so với các tiền lệ lịch sử. Từ thời chiến tranh Việt Nam, đã đánh dấu bước đột phá đầu tiên trong việc thử nghiệm tên lửa dẫn đường bằng laser, sang cuộc chiến tranh Iraq là việc chứng kiến sự tiến bộ của hệ thống sinh trắc học để nhận diện quân nổi dậy; cùng với những loại vũ khí dẫn đường tiên tiến hơn, tiến bộ của việc áp dụng và nâng cao thiết bị AI trong chiến tranh là điều hiển nhiên. Các chính phủ trên khắp toàn cầu đang không ngừng theo đuổi những tiến bộ AI mới nhằm tăng cường sức mạnh cho quân đội của họ. Nhấn mạnh vai trò của cuộc chiến tranh Gaza trong xu hướng này, một cựu quan chức Nhà Trắng đã phát biểu trên tờ The Guardian rằng "những nước khác đang theo dõi và học tập từ ứng dụng dùng AI trong chiến tranh của Israel".
Nhà báo độc lập Antony Loewenstein nhấn mạnh: "Israel đã công bố nhiều video về các cuộc không kích của mình, điều này không chỉ nhằm mục đích hướng tới khán giả trong nước mà còn gây ảnh hưởng đến dư luận quốc tế. Mục đích chính là cho thấy khả năng của họ đối với những chính phủ khác, thiết thực nhất là thu hút các khách hàng ngoại quốc". Theo Bộ Quốc phòng Israel thì xuất khẩu vũ khí của họ đang mở rộng, tăng gấp đôi giá trị trong thập kỷ qua. Trong số các khách hàng chủ chốt là các nhà nước như Ấn Độ, các nước ở Đông Nam Á, Mỹ Latinh, Phi Châu, và các nước Arab đã duy trì bình thường hóa quan hệ với Israel kể từ Hiệp định Abraham năm 2020. Nhà báo Loewenstein kết luận: "Israel đang tích cực tiếp thị thiết bị và phương pháp của họ, thiết lập môt tiền lệ có thể được những nước khác noi theo trong tương lai, cụ thể là những nước tuyên bố họ đang tham gia vào cuộc chiến chống nổi dậy. Hiện tại chính xác các quốc gia có làm theo hay không nhưng xu hướng là rõ ràng".
Một chiếc ô tô chôn ở Thung lũng Silicon, cảnh sát Mỹ 'đau đầu' giải mã Việc phát hiện ra một chiếc ô tô cùng với những bao bê tông được chôn trong sân sau một ngôi nhà ở Thung lũng Silicon đã khiến các nhà điều tra Mỹ nghi ngờ đây có thể là hiện trường của một vụ án. Chiếc ô tô được tìm thấy trong sân sau của căn nhà triệu đô ở thung lũng Silicon...