Chuyên gia Maybank KimEng VN: Cổ phiếu ngân hàng Việt đang bị định giá thấp
Chuyên gia của Maybank KimEng VN cho rằng năm 2020 ngành ngân hàng vẫn tăng trưởng 18-20%.
Ông Quản Trọng Thành – Ảnh: Huyền Trâm.
Chia sẻ với BizLIVE khi đề cập tới tác động của Thông tư 22 của NHNN, ông Quản Trọng Thành, Trưởng phòng Nghiên cứu Phân tích khối Khách hàng tổ chức, Maybank KimEng VN nhận định với thông tư này NHNN tập trung vào tỷ lệ vốn huy động ngắn hạn cho vay trung dài hạn với mục đích muốn giảm tỷ lệ về 30%.
Tuy nhiên, ông nhấn mạnh Thông tư chính thức có điểm đáng chú ý là lộ trình giảm dần tỷ lệ tối đa của nguồn vốn huy động ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung, dài hạn. Cụ thể, từ 1/1/2020 – 30/9/2020 là 40%; 1/10/2020 – 30/9/2021 là 37%; 1/10/2021 – 30/9/2022 là 34% và từ 1/10/2022 mới còn là 30%. Như vậy, việc điều chỉnh này “dễ chịu” hơn so với dự thảo trước đó, tức có 2 năm để các ngân hàng điều chỉnh, thích nghi.
Ông Thành nêu, trước đó các ngân hàng đã biết việc này, đã điều chỉnh dần dần, giảm tỷ lệ vốn ngắn cho vay trung và dài xuống dưới 40%. Các nhà băng theo đó tiến hành cơ cấu lại nguồn vốn, huy động vốn dài hạn nhiều hơn.
“Tôi nghĩ không ảnh hưởng nhiều tới biến động hoạt động ngân hàng, tới biến động giá cổ phiếu ngân hàng như nhiều nhận định lo ngại. Với Thông tư 22, tôi nhìn thấy yếu tố lợi thế với khối ngân hàng thương mại tư nhân”, chuyên gia Maybank KimEng VN đánh giá.
Cụ thể, ông Thành cho biết đó là tổng dư nợ tín dụng/tổng vốn huy động (chỉ số LDR) áp với ngân hàng thương mại nhà nước là 90%, đối với ngân hàng cổ phần tư nhân là 80%. Nhưng 2 năm tới sẽ áp mức chung là 85%. Như vậy khối ngân hàng thương mại tư nhân được hưởng lợi rất nhiều. Chẳng hạn, trước đây ngân hàng tư nhân huy động 100 đồng vốn được phép cho vay ra 80 đồng, nhưng sắp tới được cho vay 85 đồng. Có nghĩa là khối tư được nâng tỷ lệ LDR lên, sẽ có thêm nguồn vốn cho vay, một số ngân hàng không phải áp lực huy động vốn quá quyết liệt.
Với ngân hàng cổ phần nhà nước tác động ra sao? Ví dụ với VCB, ông Thành đánh giá khả năng huy động vốn của ngân hàng rất mạnh, tỷ lệ LDR hiện đã dưới 85%, hoàn toàn có khả năng thực hiện quy định này.
Nhận định về việc điều chỉnh giảm trần lãi suất của NHNN, chuyên gia này nêu, cùng với động thái giảm lãi suất trước đó (25 điểm % vào tháng 9), mức trần lãi suất thấp hơn nhằm mục đích khuyến khích các ngân hàng giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ các doanh nghiệp. Với mức độ cắt giảm lãi suất (cả lãi suất tiền gửi và cho vay), ông tin rằng tác động tới chi phí vốn, biên lợi nhuận của ngân hàng là thấp
Video đang HOT
Đánh giá chung, ông Thành nêu, trong vòng một năm tới những quy định đưa ra vẫn hỗ trợ ngành ngân hàng phát triển, tăng trưởng tín dụng ngành sẽ duy trì mức 13 – 14%, những ngân hàng tốt có thể được nâng thêm.
“Việc siết margin, điều chỉnh lãi suất như hiện tại không ảnh hưởng nhiều, margin sẽ tiếp tục mở rộng nếu các ngân hàng đẩy mạnh mảng bán lẻ. Chất lượng tài sản được nâng lên, các ngân hàng chưa phải trích lập dự phòng quá lớn trong năm sau dù diễn biến nợ xấu nhích lên chút, nhưng chưa đến một chu kỳ xấu, thậm chí đối với một số ngân hàng đẩy mạnh, xóa trích lập dự phòng cho VAMC năm sau sẽ nhẹ gánh”, ông Thành nhận định.
Theo đó, với 3 yếu tố tăng trưởng tín dụng, margin và chi phí dự phòng ở mức ổn định, thậm chí còn giảm theo đó chuyên gia đánh giá khả năng tăng trưởng lợi nhuận ngân hàng năm tới vẫn duy trì ở mức 18-20%.
Và theo nhận định của chuyên gia này, định giá cổ phiếu ngành ngân hàng P/B phải ở mức 1.5 đến 1.8 lần chứ không ở mức 1.2 như hiện nay. Tại sao ngành ngân hàng ở mức thấp như vậy? Ông Thành cho rằng đơn giản là “full room” cho nước ngoài. Và một trong những giải pháp cho việc này đó là sự tham gia của những quỹ ETF mới thành lập, mục tiêu mua những cổ phiếu có định giá hấp dẫn nhưng hết room ngoại.
Ngoài ra, ông Thành cũng đề cập tới câu chuyện mang tính cơ hội với xác suất khoảng 80% đó là Kuwait được nâng hạng khỏi thị trường cận biên. Nếu họ được nâng hạng thì Việt Nam sẽ trở thành thị trường lớn nhất trong rổ chỉ số các thị trường cận biên của MSCI hiện tại. Bản thân MSCI cũng tính toán tỷ trọng sẽ nâng từ 18 lên 30%, dòng tiền sẽ đổ vào các cổ phiếu, hỗ trợ thị trường.
Chuyên gia này đưa ra quan điểm kỳ vọng nửa năm sau là thị trường tốt cho TTCK. Sau đó phải đặt trong bức tranh vĩ mô, lo ngại tăng trưởng toàn cầu chậm lại, suy thoái nếu có thể xảy ra, những chỉ số kinh tế của Mỹ…
HUYỀN TRÂM
Theo Bizlive.vn
SSI Research: Dòng vốn ngoại có dấu hiệu trở lại, nâng đỡ thị trường chứng khoán cuối 2019, đầu 2020
Có một số dấu hiệu cho thấy các định chế tài chính quốc tế đang quay trở lại với kênh đầu tư cổ phiếu.
Dòng vốn đang đảo chiều
Sau mỗi lần FED giảm lãi suất, các quỹ đầu tư cổ phiếu đều ghi nhận có hút ròng. Tuy nhiên, phải đến lần giảm thứ 3 vào cuối tháng 10, dòng vốn vào cổ phiếu mới ghi nhận dương 3 tuần liên tiếp. Các quỹ cổ phiếu ở cả thị trường mới nổi và phát triển đều ghi nhận hút ròng, trong đó nhiều nhất là các quỹ đầu tư toàn cầu và dưới dạng quỹ ETF.
Theo khảo sát mới nhất ngày 12/11/2019 của Bank of America Merrill Lynch cho thấy những thay đổi tích cực trong triển vọng tăng trưởng kinh tế và thay đổi định hướng phân bổ tài sản. Có 43% nhà quản lý quỹ kỳ vọng tăng trưởng kinh tế sẽ cải thiện trong vòng 12 tháng tới - tăng 6% so với mức 37% tại khảo sát tháng 10 và là mức tăng tỷ trọng mạnh nhất theo tháng kể từ 1994 đến nay; và 52% tin tưởng rằng cổ phiếu sẽ là kênh đầu tư hiệu quả nhất trong năm 2020.
Các chỉ số chứng khoán S&P 500 và Dow Jones tăng 23,4% và 19,1% kể từ đầu 2019 đến nay nhờ đảo chiều chính sách từ thắt chặt sang nới lỏng của FED và các chỉ số kinh tế vẫn khá vững vàng của Mỹ. Các chỉ số đo lường xác suất khủng hoảng của nền kinh tế Mỹ đều giảm trong đợt công bố mới nhất. Với các tín hiệu từ kinh tế, chính sách tiền tệ và khảo sát các nhà đầu tư, thời điểm hiện tại có thể là lúc giới đầu tư nhận thấy có thể sẽ bỏ lỡ cơ hội đầu tư cổ phiếu và cần phải thay đổi chiến lược phân bổ tài sản.
Làn sóng nới lỏng tiền tệ lan rộng là nguyên nhân chính khiến dòng vốn đảo chiều
Với việc tăng trưởng kinh tế toàn cầu chậm lại cùng với chiến tranh thương mại, ngành sản xuất của tất cả các nước suy giảm. Chỉ số PMI của Mỹ, Anh, EU, Đức, Nhật đã giảm liên tục và hiện đều ở mức dưới 50. Chính sách tiền tệ nới lỏng tiếp tục được duy trì với mức lãi suất -0,1% tại Nhật, 0% tại EU, 0,75% tại Anh và 1,5-1,75% tại Mỹ. Làn sóng nới lỏng tiền tệ lan rộng với tổng cộng 139 đợt giảm lãi suất của các NHTW từ đầu năm đến nay, trong đó có một số NHTW giảm tới 3 -4 lần. Lãi suất tại một số quốc gia như Hàn Quốc, Thái Lan đang ở mức thấp kỷ lục trong lịch sử.
Trong khi đó, chương trình nới lỏng định lượng (QE) kéo dài giai đoạn 2008-2017 đã mở rộng bảng cân đối kế toán của FED tới 4.500 tỷ USD (tuy có thu hẹp sau đó nhưng chỉ giảm bớt khoảng 390 tỷ USD). QE cũng được ECB duy trì từ 2015 đến 2018 và vừa tuyên bố tái khởi động lại trong tháng 11/2019.
Một lượng lớn trái phiếu chính phủ (TPCP) được các NHTW mua lại để tăng lượng cung tiền ra thị trường. Trong khi đó, rủi ro gia tăng khiến các nhà đầu tư tìm đến TPCP nhiều hơn và khiến cho lợi tức TPCP giảm rất sâu trong năm 2019 và đang ở vùng thấp nhất lịch sử. Dư địa tăng giá của TPCP vì vậy đã giảm đi đáng kể. Do đã tăng giá mạnh và không gian nới lỏng tiền tệ của các NHTW lớn không còn nhiều, thị trường đã bắt đầu nói đến nỗi lo bong bóng trên thị trường trái phiếu.
Thị trường ngoại hối đang chịu áp lực từ quá nhiều biến động khó lường của chiến tranh thương mại, Brexit, các diễn biến địa chính trị...
Trong bối cảnh đó, cổ phiếu nổi lên là kênh đầu tư có tiềm năng trong các kênh đầu tư truyền thống. Nới lỏng tiền tệ khiến lượng vốn giá rẻ tràn ngập, chi phí vốn thấp làm tăng mức chấp nhận rủi ro của các nhà đầu tư khi cân nhắc chiến lược phân bổ tài sản.
Tiền từ ETF tạo sự nâng đỡ cho VN-Index trong thời gian cuối 2019, đầu 2020
Nhìn lại quá khứ, các đợt tăng mạnh của thị trường chứng khoán Việt Nam đều được hỗ trợ bởi dòng vốn từ các quỹ ETF. Mối tương quan này mờ nhạt hơn trong tháng 6 và 7 khi các quỹ ETF ghi nhận hút ròng nhưng VN-Index không có nhiều khởi sắc. Thời gian này xu hướng dòng vốn trên toàn cầu chưa thực sự tích cực với cổ phiếu. Chiến tranh thương mại căng thẳng trở lại trong tháng 8 đã khiến giới đầu tư ngay lập tức chuyển hướng phòng thủ.
Trong 2 tháng trở lại đây, dòng vốn đầu tư vào quỹ ETF ra vào đan xen nhưng hút ròng vẫn có phần nhỉnh hơn. Tuy nhiên, nhà đầu tư ngoại lại bán ròng khá lớn trên cả 3 sàn (1.583 tỷ đồng trong tháng 10 và 950 tỷ đồng từ đầu tháng 11). Đây phần nhiều là hoạt động tái cơ cấu của các quỹ đầu tư chủ động, từ đó tạo sức ép lên thị trường.
Với những diễn biến mới của dòng vốn toàn cầu trong thời gian gần đây và với giả định không có những biến động bất ngờ như đổ vỡ của đàm phán thương mại Mỹ - Trung, SSI kỳ vọng dòng vốn nước ngoài, trong đó có dòng vốn ETF sẽ tích cực hơn, từ đó tạo sự nâng đỡ cho chỉ số trong thời gian cuối 2019, đầu 2020.
MAI HƯƠNG
Theo bizlive.vn
BIDV dồn lực trích lập dự phòng, đón nhận nguồn vốn quan trọng từ KEB Hana BIDV đã sử dụng hơn 70% thu nhập hoạt động trước dự phòng nợ xấu để trích lập dự phòng nợ xấu, đón nhận thêm nguồn vốn dài hạn quan trọng từ Ngân hàng KEB Hana (Hàn Quốc) thông qua thương vụ M&A lịch sử. Theo báo cáo mới đây của Bộ phận Phân tích CTCP Chứng khoán SSI, điểm nổi bật trong...