Chuyên gia hiến kế Mỹ cùng châu Á xử lý Trung Quốc ngang ngược
Các nước cần đoàn kết, cùng nhau đưa ra phản ứng kiên quyết đối với hành vi hung hăng khiêu khích của Trung Quốc để nước này “biết khó mà lui”.
Dã tâm của Trung Quốc ở châu Á – Thái Bình Dương
Trung Quốc từ lâu đã hung hăng mở rộng quyền kiểm soát tại Biển Đông và biển Hoa Đông với hàng loạt hành động gây hấn.
Điển hình là hành động quấy rối tàu cá và tàu thăm dò Việt Nam năm 2011. Tháng 6/2012, tàu Hải quân Trung Quốc đã theo dõi tàu Ấn Độ tại vùng biển quốc tế giữa Philippines và Hàn Quốc sau khi Ấn Độ và Việt Nam đồng ý hợp tác khám phá nguồn tài nguyên dầu khí ở Biển Đông. Không dừng ở đó, Trung Quốc đã đẩy lùi tàu Philippines ra khỏi bãi cạn Scarborough vào tháng 8/2012. Tháng 11/2013, Trung Quốc tuyên bố vùng nhân dang phòng không trên biển Hoa Đông, bao phủ cả vùng biển được Nhật, Hàn Quốc tuyên bố chủ quyền. Tháng 3/2014, Trung Quốc cũng ngăn cản Philippines cung ứng hậu cần cho các binh sĩ trên rạn san hô Cỏ Mây.
“Với những hành động gần đây, Trung Quốc đang cho thấy phong cách mới của mình: họ sẵn sàng hành động để đạt được những yêu sách”, ông Christopher Len – Nghiên cứu viên tại Viện Nghiên cứu Năng lượng thuôc ĐH Quốc gia Singapore nhận xét.
Các nước có tranh chấp với Trung Quốc nên đoàn kết để chống lại sự hung hăng của Trung Quốc, nhiêu chuyên gia nhân đinh.
Chỉ vài ngày sau khi Tổng thống Obama kết thúc chuyến thăm đến châu Á, Trung Quốc đã tấn công các tàu Việt Nam cũng như hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng biển Việt Nam nhằm hiện thực hóa âm mưu độc chiếm Biển Đông cũng như “kiểm tra” mưc đô can dư của Washington vơi khu vưc.
Bị phân tâm bởi các vấn đề về ngân sách và khủng hoảng chính sách đối ngoại ở các khu vực khác, Mỹ không có nhiều hành động phản ứng lại sự hung hăng của Trung Quốc. Trung Quốc cũng rất khôn khéo khi chỉ thực hiện những bước đi nhỏ nhằm tránh phản ứng mạnh mẽ từ phía Mỹ.
Video đang HOT
Giàn khoan Hải Dương-981 là bước mở đâu trong dã tâm “độc chiếm Biển Đông” của Trung Quốc.
Theo Thạc sĩ Hoàng Việt, sự kiện hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương-981 là bước mở đầu có tính chất bước ngoặt trong dã tâm “độc chiếm Biển Đông” của Trung Quốc vì Việt Nam là một nước có truyền thống đâu tranh trong khu vực, cũng như có thái độ rất cứng rắn với luận điệu “đường chín đoạn”… Nếu chiếm được ưu thế trước Việt Nam, Trung Quốc sẽ theo đó, làm điều tương tự với cả Philippines, Indonesia, Malaysia… và từ đó, lấn chiếm dần Biển
Đông. Song song với việc bắt nạt các nước trong khu vực, Trung Quốc sẽ tìm cách giữ Mỹ ở ngoài cuộc.
Các hành động hung hăng của Trung Quốc sẽ tiếp tục cho đến khi Trung Quốc chiếm được những thứ mình muốn cũng như áp đảo Mỹ ở châu Á hoặc nước này gặp phải một đối trọng đủ kiên quyết để ngăn cản ho.
Để tạo thành đối trọng này, Mỹ và các đối tác châu Á phải cùng nhau đương đầu với Trung Quốc.
Giải pháp cho Mỹ, Việt Nam và các nước khác
Trong bài viết mới nhất của mình, nhà bình luận về chính sách ngoại giao Mỹ Paul J. Leaf nhận định. cũng gợi ý một số giải pháp Việt Nam, Mỹ và các nước đồng minh cua ho cần thực hiện để giảm căng thẳng trên Biển Đông.
Đầu tiên, Trung Quốc phải nhận ra rằng, căng thẳng leo thang sẽ khiến Bắc Kinh phải trả giá. Mỹ nên có những tuyên bố cứng rắn nhằm răn đe Trung Quốc về việc nước này sẽ triển khai hải quân và không quân gần giàn khoan Hải Dương 981 nếu Trung Quốc tiếp tục có các hành động khiến căng thẳng leo thang. Ngoài ra, Mỹ cũng cần xem xét các lệnh trừng phạt đối với công ty năng lượng Trung Quốc sở hữu giàn khoan Hải Dương-981.
Tàu Cảnh sát biển Việt Nam kiên quyết thực thi nhiệm vụ bất chấp sự hung hăng của phía Trung Quốc.
Bằng cách duy trì lực lượng tàu chấp pháp gần giàn khoan Hải Dương-981 bất chấp các hành động hung hăng của Trung Quốc, Việt Nam cho thấy quyết tâm của mình trong việc ngăn cản Trung Quốc hiện thực hóa giấc mộng bá quyền. Việt Nam đã rất đúng đắn khi không sử dụng lực lượng quân sự vì điều đó sẽ giúp thế giới thấy được bộ mặt hung hãn của Trung Quốc khi nước này luôn duy trì một số tàu quân sự ở khu vực giàn khoan Hải Dương-981 nằm trong vùng biển Việt Nam.
Việt Nam cũng nên tiếp tục các cuộc đối thoại với Trung Quốc để đạt được giải pháp ngoại giao, nhưng Việt Nam cần tỉnh táo, tránh đơn phương rút khỏi khu vực giàn khoan như Trung Quốc yêu cầu bơi như thê se pham phai sai lâm giông Philippines. Cu thê, trong sự kiện bãi cạn Scarborough khi Mỹ làm trung gian hòa giải và đòi hỏi cả Trung Quốc và Philippines rút tàu ra khỏi vùng biển này. Nhưng chỉ có Philipines nghiêm túc thực hiện yêu cầu của Mỹ. Kêt qua la bãi Scarborough rơi vào tầm kiểm soát của Trung Quốc.
Ngoài ra, Việt Nam cũng cần kêu gọi sự hỗ trợ từ cộng đồng quốc tế vì Bắc Kinh vốn coi trọng thể diện. Trước đó, khi Philippines định sử dụng trọng tài quốc tế sau sự kiện Scarborough, Trung Quốc đã đưa ra đề nghị về việc Trung Quốc rút khỏi khu vực Scarborough nếu Philippines trì hoãn việc sử dụng trọng tài.
Các nước châu Á khác có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc cũng cân lên án các hành động của Trung Quốc. Nếu các nước cùng lên tiếng, Trung Quốc sẽ tự nhận ra rằng sự hung hăng của mình đang khiến các nước khác xích lại gần nhau và tiến về phía Mỹ.
Tàu Trung Quốc sử dụng vòi rồng tấn công tàu châp phap của Việt Nam gần khu vực giàn khoan Hải Dương-981
Tình trạng này thực tế đang diễn ra. Philippines vừa cho phép Mỹ sử dụng các căn cứ quân sự và tăng cường hợp tác với Việt Nam. Trong khi đó, Nhật vừa công bố viện trợ hàng hải cho Việt Nam. Ấn Độ cũng đồng ý huấn luyện các thủy thủ Việt Nam trong tác chiến tàu ngầm. Mục tiêu giải pháp này là cho Trung Quốc thấy, các nước trong khu vực sẽ đồng lòng phản ứng nếu Trung Quốc nhắm vào một trong số họ. Qua đó sẽ khiến Trung Quốc từ bỏ chiến lược “bẻ từng chiếc đũa”.
Ngoài ra, Việt Nam cũng cần cải thiện khả năng phòng thủ bao gồm cả tăng cường lực lượng chấp pháp trên biển và năng lực giám sát. Mỹ cũng cần xem xét lại lệnh cấm bán vũ khí gây sát thương cho Việt Nam. Ngoài ra, Việt Nam, Mỹ và các nước có tranh chấp với Trung Quốc cũng nên tiến hành các cuộc tập trận đa phương.
Cuối cùng, Việt Nam và các nước châu Á – Thái Bình Dương cũng nên tìm cách giảm sự phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc bằng cách mở rộng hợp tác kinh tế với các nước khác thông qua các hiệp định thương mại như Hiệp định Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương. Thông qua các hiệp định thương mại, các nước châu Á – Thái Bình Dương nói chung và Việt Nam nói riêng có thể phát triển mạnh mẽ, từ đó nâng cao khả năng quốc phòng, tự lực tự cường để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biển đảo.
Ngoài ra, lịch sử chỉ ra Trung Quốc phải xuống thang khi Mỹ và các đồng minh kiên quyết phản ứng với việc Trung Quốc mở rộng vùng xác định phòng không. Sau hàng loạt các hành động của Mỹ, Nhật và Hàn Quốc như: cả 3 nước gửi máy bay chiến đấu bay qua vùng nhân dang phòng không của Trung Quốc trên biển Hoa Đông; Nhật tăng ngân sách quốc phòng hay Hàn Quốc mở rộng khu vực nhân dang phòng không bao phủ một phần vùng biển của Trung Quốc, Bắc Kinh đã phần lớn tỏ thái độ im lặng cũng như không theo đuổi tuyên bố xác lập vùng nhân dang phòng không ở Biển Đông.
Như vậy, Mỹ và các đồng minh châu Á phải chứng minh được rằng họ có thể cùng nhau phản ứng một cách kiên quyết đối với các hành động khiêu khích của Trung Quốc. Về phần mình, Việt Nam cũng phải theo đuổi các biện pháp ngoại giao khôn khéo và kiên quyết nhưng cũng đồng thời tăng cường khả năng quốc phòng, tự chủ kinh tế để có thể bảo vệ hiệu quả chủ quyền của mình trước Trung Quốc. Với những hành động kể trên, Trung Quốc sẽ “biết khó mà lui”, từ bỏ các yêu sách về lãnh thổ trên Biển Đông.
Theo Kiến Thức
Luận cứ không thể bác bỏ về chủ quyền ở Biển Đông
Đây là những tư liệu lịch sử có giá trị khoa học làm căn cứ pháp lý xác định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Xuất bản trong bối cảnh Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, cuốn sách "Một số tư liệu Hán Nôm về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển của Việt Nam ở biển Đông" do Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) thực hiện đã thu hút được sự quan tâm đặc biệt của dư luận.
Tấm bản đồ thời Nguyễn "Bản quốc dư đồ" có vẽ Hoàng Sa là của Việt Nam.
Lâu nay, ở Việt Nam cũng như ở nước ngoài đã có nhiều công trình của các học giả nghiên cứu về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và vùng biển của Việt Nam trên Biển Đông. Tất cả đều thống nhất khẳng định hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam do nhà nước Việt Nam quản lý, khai thác từ nhiều thế kỷ qua. Vì thế, cuốn sách này được ra đời cũng nằm trong mạch chung của sự nhất quán khẳng định Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam. Bằng việc sưu tập các loại văn bản như bản đồ, địa chí, lịch sử, văn bản hành chính, tạp văn cùng nhiều loại tài liệu khác, đội ngũ các nhà nghiên cứu do PGS. TS Trịnh Khắc Mạnh làm chủ biên đã mang đến người xem cái nhìn cụ thể và toàn cảnh về chủ quyền của Việt Nam. Đây là những tư liệu lịch sử có giá trị khoa học làm căn cứ pháp lý xác định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Cuốn sách tập trung vào hai nội dung chính: Tư liệu Hán Nôm về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển của Việt Nam ở Biển Đông và Về quản lý của Nhà nước Phong kiến Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển của Việt Nam ở Biển Đông qua tư liệu Hán Nôm. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra những bằng chứng lịch sử rất thuyết phục được trích dẫn từ nguồn sử liệu tin cậy. Có thể kể ở đây như bộ Đại Nam nhất thống chí do Quốc sử triều Nguyễn biên soạn năm 1882 có đoạn ghi: "Đảo Hoàng Sa nằm ở phía Đông đảo Lý Sơn thuộc huyện Bình Sơn, từ bờ biển Sa Kỳ đi thuyền ra biển thuận gió thì khoảng ba, bốn ngày đêm có thể đến đảo. Quần đảo này có đến hơn 130 đảo, chung quanh đều là biển, cách nhau chừng một ngày đường hoặc mấy canh giờ. Trên đảo có Bãi Cát Vàng kéo dài không biết mấy ngàn dặm, bằng phẳng rộng rãi... Buổi đầu lập quốc đặt đội Hoàng Sa lấy dân xã An Bảo sung vào, hàng năm cứ tháng ba là ra biển thu lượm hải vật". Điều này cho thấy, trong lịch sử, Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, các bản đồ Trung Quốc và phương Tây đều thể hiện rất rõ điều này.
PGS.TS Trịnh Khắc Mạnh, Nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu Hán Nôm (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam): Sách giáo khoa Trung Quốc thừa nhận biên giới chỉ đến đảo Hải Nam.
Chúng tôi bác bỏ tấm bản đồ 2.000 năm mà Trung Quốc viện dẫn để lấp liếm cho tính pháp lý của đường 9 đoạn và khẳng định là hoàn toàn không có. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi tìm thấy một ấn bản sách giáo khoa tiểu học của Trung Hoa Dân Quốc năm 1912 đã vẽ biên giới Trung Quốc chỉ đến đảo Hải Nam. Cùng với đó, những bản đồ của phía Trung Quốc được in vào thời kỳ cận đại và đầu thế kỷ XX đều vẽ biên giới của Trung Quốc chỉ đến đảo Hải Nam. Như vậy, Trung Quốc cần tôn trọng sự thật lịch sử và công nhận chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Theo Kiến Thức
Câu chuyện về tàu Cảnh sát biển 2016 con tàu gan lỳ nhất Chiều 3.6, tàu CSB 2016 trên mình đầy thương tích đã về đến Đà Nẵng sau 2 tuần làm nhiệm vụ trên vùng biển Hoàng Sa. Đây là con tàu đã đưa PV Báo Lao Động (được cử đi đợt thứ hai) ra thực địa, từ đó chuyển sang tàu của lực lượng kiểm ngư tác nghiệp. Tàu CSB 2016. Ảnh: Infonet Thượng...