Chuyển đổi số nông nghiệp Việt và bài học “tam giác quan hệ” từ Israel
Phát triển nông nghiệp chất lượng cao trong thời kỳ chuyển đổi số là vấn đề cấp thiết, ngoài việc đầu tư nghiên cứu thì cần phải ứng dụng ngay vào sản xuất.
Hội thảo với chủ đề “Chuyển đổi số nông nghiệp – nông thôn trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045″ tổ chức chiều 17/11 đã ghi nhận nhiều ý kiến đóng góp đáng chú ý. Đây là hội thảo chuyên đề thứ 9 trong khuôn khổ Diễn đàn cấp cao thường niên lần thứ ba về công nghiệp 4.0 do Ban Kinh tế Trung ương chủ trì.
Kiến tạo số hoá phát triển ngành nông ngh iệp
Nông nghiệp được xác định là một trong 8 lĩnh vực ưu tiên trong chương trình chuyển đổi số quốc gia. Theo ông Phùng Đức Tiến – Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, những thành công của ngành nông nghiệp gần đây có nhiều đóng góp từ việc triển khai hệ thống giải pháp, phát triển khoa học công nghệ, đã dần chuyển đổi từ nông nghiệp truyền thống sang nông nghiệp hiện đại.
Việc chuyển đổi số ngành nông nghiệp là giải pháp tổng thể góp phần nâng cao năng suất, hiệu quả, tạo đột phá trong phát triển nhanh, bền vững của ngành.
Tiêu biểu trong trồng trọt là các phần mềm phân tích dữ liệu về môi trường, giai đoạn sinh trưởng của cây, cho phép truy xuất, theo dõi các thông số này theo thời gian thực. Trong chăn nuôi là ứng dụng công nghệ Internet vạn vật (IoT), block chain, công nghệ sinh học ở trang trại quy mô lớn…
Ông Phùng Đức Tiến – Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phát biểu tại hội thảo.
Theo Thứ trưởng, ước tính đến hết năm 2021, cả nước có 19.000 hợp tác xã nông nghiệp và 79 liên hiệp hợp tác xã nông nghiệp, trong đó trên 2.200 hợp tác xã ứng dụng công nghệ cao, công nghệ số trong sản xuất (chiếm 12%).
“Toàn ngành nông nghiệp đang tập trung thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số, coi đây là giải pháp đột phá tạo động lực mới cho tăng trưởng, phát triển ngành với trọng tâm là xây dựng nền nông nghiệp minh bạch dữ liệu, thông tin và có trách nhiệm với người sản xuất, với người tiêu dùng”, ông nói.
Là một trong những quốc gia nằm ở khu vực Trung Đông, Israel có tới 60% diện tích là sa mạc và thường xuyên phải đối mặt với nguy cơ hạn hán bởi mùa hè cực kỳ nóng và rất ít mưa. Vượt lên trên điều kiện khí hậu khắc nghiệt ấy, Israel hiện là quốc gia có nền nông nghiệp phát triển hàng đầu thế giới, không những đáp ứng đủ cho 95% nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu sản phẩm sang các thị trường khác.
Ông Nadav Eshcar – Đại sứ Israel tại Việt Nam chia sẻ: “Trước đây, Israel chẳng có gì ngoài cát, sự khô nóng, nghèo nàntài nguyên nước, năng lượng và hoá chất. Chúng tôi buộc phải tìm mọi cách để sinh tồn, sản xuất thực phẩm nuôi sống người dân. Muốn làm được điều đó, từ những năm 50 của thế kỷ trước, chúng tôi bắt đầu hành trình biến sa mạc thành những cánh đồng xanh”.
Theo ông, đến nay, phát minh về công nghệ tưới nhỏ giọt của Israel đã nổi tiếng toàn thế giới – phát triển nông nghiệp chất lượng cao trong điều kiện bất khả thi. Nó không phải là sự ngẫu nhiên mà đây là quá trình dài hơi nghiên cứu và ứng dụng vào sản xuất.
Video đang HOT
Ông Nadav Eshcar – Đại sứ Israel tại Việt Nam.
Ở góc độ công nghiệp sản xuất giống vật nuôi, Israel đã sở hữu công nghệ nhận diện giới tính trong phôi trứng, nhờ đó chủ động lựa chọn sản phẩm đầu ra (gà trống hay gà mái)… Đó chỉ là một trong vô số sản phẩm công nghệ đột phá của Israel trong lĩnh vực nông nghiệp.
“Để làm được điều đó, chúng tôi tạo ra một hệ sinh thái “tam giác quan hệ” với 3 đỉnh: Nhà nước – giới học giả của doanh nghiệp khoa học công nghệ – người thụ hưởng (nông dân, trang trại…)”, ông Nadav Eshcar chia sẻ.
Từ những vấn đề bất cập mà nông dân gặp phải trong sản xuất nông nghiệp, vị Đại sứ cho biết, Nhà nước sẽ đặt hàng và cung cấp tài chính để các đơn vị nghiên cứu giải pháp.
Theo đó, sản phẩm nghiên cứu sẽ được chuyển giao cho doanh nghiệp và doanh nghiệp cung ứng cho nông dân. Ngược lại, dựa trên lợi nhuận kinh doanh, doanh nghiệp sẽ nộp thuế cho nhà nước. “Đó là một vòng tuần hoàn mà tất cả các bên tham gia đều có lợi ích”, ông nhấn mạnh.
Hướng tới nền nông nghiệp phát thải thấp
Đánh giá cao nền nông nghiệp đang trên đà phát triển của Việt Nam, bà Dina Umali Deininger – Giám đốc thực hành nhóm nông nghiệp và thực phẩm của World Bank – đánh giá Việt Nam là một trong những ví dụ điển hình về thành công trong nông nghiệp và có rất nhiều cơ hội để phát triển trong tương lai tại Việt Nam.
“Việt Nam là một cường quốc về nông nghiệp, kim ngạch xuất khẩu cũng rất là lớn và Việt Nam cũng nằm trong số quốc gia hàng đầu trên thế giới về xuất khẩu hạt điều, cà phê và lúa gạo. Quốc gia này có rất nhiều cơ hội về cung ứng lương thực thực phẩm trên toàn cầu, dự báo sẽ tăng thêm 60% vào năm 2030″, bà Dina nói.
Đại diện World Bank đánh giá ngành nông nghiệp Việt Nam có rất nhiều cơ hội phát triển trong tương lai (Ảnh: Hữu Thắng).
Tuy nhiên, theo bà, để duy trì sự phát triển bền vững đó thì sẽ có những thách thức song hành. Trong những thách thức mà Việt Nam đang phải đối mặt, nông nghiệp có tăng trưởng nhưng tốc độ còn chậm, đóng góp vào GDP của ngành nông nghiệp cũng đang giảm đi.
Hơn nữa, cách để ngành nông nghiệp thành công thì nó cũng đi kèm với một số loại chi phí như phát triển nông nghiệp không bền vững, hoặc sử dụng quá mức các nguồn tài nguyên như nguồn nước…
“Việc sử dụng quá mức thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật, và có một vấn đề rất lớn về suy giảm chất lượng của đất, việc khai thác nước ngầm quá mức, ảnh hưởng của biến đổi khí hậu… đều ảnh hưởng tới ngành nông nghiệp Việt Nam trong những năm vừa qua”, bà nói.
Theo đại diện của World Bank, ngành nông nghiệp cũng là một nạn nhân của biến đổi khí hậu. Chính phủ Việt Nam cũng đã có những chính sách rất là mạnh mẽ và quyết đoán để phát triển ngành nông nghiệp bền vững, bao gồm cả các chương trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp, cũng cam kết giảm phát thải khí nhà kính trong thời gian tới.
Bà cũng nhấn mạnh, việc giảm phát thải khí nhà kính trong ngành nông nghiệp là một vấn đề rất quan trọng và cần được quan tâm hơn nữa.
Tạo khí thế mới cho nông nghiệp Lai Châu
Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Quốc Doanh đánh giá cao định hướng của Lai Châu phát triển bền vững nền nông nghiệp, và đặt mục tiêu trồng mới 50.000 ha cây mắc ca vào 2025.
Thứ trưởng Lê Quốc Doanh thăm mô hình vườn ươm mắc ca tại huyện Phong Thổ, Lai Châu. Ảnh: Bảo Thắng.
Lai Châu là một tỉnh có tiềm năng lớn để phát triển nông nghiệp. Tiêu biểu nhất là quỹ đất. Theo thống kê, diện tích đất nông nghiệp là hơn 526.000 ha, chiếm 58% diện tích tự nhiên của tỉnh.
Diện tích bình quân đất đai đầu người là 2,2 ha - gấp 6 lần bình quân cả nước. Diện tích đất trống chưa sử dụng khoảng 240.000 ha, tổng diện tích đất nông nghiệp có thể chuyển đổi sang cây trồng giá trị cao là hơn 20.000 ha. Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp năm 2020 đạt 5,58%, thuộc tốp đầu cả nước.
Làm việc với UBND tỉnh Lai Châu ngày 12/11, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Quốc Doanh cho rằng, Lai Châu cần tạo ra "một khí thế mới" để thúc đẩy nền nông nghiệp. Một trong những giải pháp, đó là tìm ra những sản phẩm nông nghiệp đặc hữu, hoặc cho giá trị kinh tế cao.
"Tôi vừa nghe báo cáo, tỉnh đặt mục tiêu trồng mới 50.000 ha cây mắc ca đến năm 2025. Nếu thực hiện được, thì rất tuyệt vời. Dù đây là loài cây mới, Bộ NN-PTNT ủng hộ chủ trương phát triển cây mắc ca của tỉnh. Trước mắt, chúng ta sẽ làm từng bước, cái nào dễ làm trước, vừa làm vừa học hỏi, trao dồi kinh nghiệm", Thứ trưởng nói.
Lai Châu triển khai trồng cây mắc ca từ năm 2011. Tính đến đầu tháng 11/2021, tổng diện tích trồng đạt 5.209 ha, chủ yếu là các dòng như OC, 816, 246, 842, 849.
Qua theo dõi, cây sinh trưởng, phát triển tương đối tốt, ra hoa nhiều và tỷ lệ đậu quả cao, bước đầu cho thấy phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng của tỉnh.
Là một trong số các loại cây lâm nghiệp đa mục đích được Lai Châu định hướng tập trung phát triển, tỉnh đặt mục tiêu tham vọng trồng khoảng 100.000 ha vào năm 2030. Ngoài ra, tỉnh trồng quế khoảng 15.000 ha; chè khoảng 10.000 ha theo hướng an toàn, chất lượng.
Ngoài những loài cây lâm nghiệp giá trị cao, Lai Châu vẫn quan tâm đến nhiều cây lương thực, và có nhiều sản phẩm OCOP như gạo tẻ râu Phong Thổ, gạo séng cù Than Uyên... Điều này giúp tỉnh đảm bảo an ninh lương thực, cũng như an sinh xã hội cho bà con trên địa bàn.
Nhằm giúp Lai Châu tăng tốc phát triển nông nghiệp, Thứ trưởng Lê Quốc Doanh gợi mở một số định hướng như: Tập trung xây dựng bộ quy chuẩn hướng dẫn về cách chọn tạo giống, kỹ thuật chăm sóc. Ngoài ra, Thứ trưởng Lê Quốc Doanh cũng đề nghị tỉnh sớm có những đánh giá về năng suất cho từng tiểu vùng khí hậu riêng biệt trên địa bàn.
"Nhầm giống lúa thì thiệt hại vài ba tháng, nhưng nhầm giống cây ăn quả, cây lâm nghiệp, công nghiệp, sẽ phải trả giá hàng chục năm. Bộ NN-PTNT cam kết hỗ trợ địa phương về các công nghệ lõi, như chuẩn hóa cây đầu dòng, tạo vườn mẫu cho từng loại cây để bà con tham quan, tiếp thu thêm những kinh nghiệm hay", Thứ trưởng Lê Quốc Doanh chia sẻ.
Chủ tịch UBND tỉnh Lai Châu, ông Trần Tiến Dũng phát biểu trong buổi làm việc với Đoàn công tác Bộ NN-PTNT ngày 12/11. Ảnh: Đức Minh.
Ngoài quỹ đất, Lai Châu còn dư địa về hệ thống sông, suối, và mặt hồ thủy điện. Tổng diện tích mặt hồ của tỉnh là hơn 16.600 ha, trong đó khoảng 5.000 - 6.000 ha thích hợp nuôi cá lồng với các loại cá nước ngọt.
Lai Châu còn được thiên nhiên ưu đãi về khí hậu. Tỉnh có 3 đới khí hậu rõ rệt, là đới khí hậu nóng, ẩm dưới 600m - thích hợp cây nhiệt đới; Đới khí hậu mát, ẩm có độ cao từ 600 - 1.000m - thích hợp cây á nhiệt đới; đới khí hậu ôn đới cao trên 1.000m - thích hợp cây ôn đới và nhiều dược liệu quý hiếm như sâm Lai Châu, đỗ trọng, đương quy, tam thất...
Trên cơ sở đó, Chủ tịch UBND tỉnh Lai Châu, ông Trần Tiến Dũng kiến nghị Bộ NN-PTNT hỗ trợ tỉnh xây dựng các nguồn giống và vườn ươm chất lượng cao tại các huyện, để chủ động sản xuất.
Bên cạnh đó, lãnh đạo tỉnh Lai Châu cũng bày tỏ nguyện vọng Bộ NN-PTNT hỗ trợ địa phương trong công tác nghiên cứu, chuyển giao công nghệ bảo quản, sơ chế, chế biến các sản phẩm nông nghiệp như hạt mắc ca, sâm Lai Châu, đồng thời hỗ trợ xây dựng một số cơ sở sơ chế, chế biến tại một vài vùng nguyên liệu trọng điểm.
Chủ tịch UBND tỉnh Lai Châu cũng đề nghị Bộ NN-PTNT hỗ trợ vườn giống một cách bài bản để bảo tồn giống sâm Lai Châu; hỗ trợ tỉnh phát triển những loài rau, hoa trái vụ, giúp đem lại lợi ích cao hơn cho người dân.
Thời gian qua, Lai Châu đã ban hành 4 nghị quyết để hỗ trợ, thúc đẩy phát triển nông nghiệp, đó là: Chính sách đặc thù khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp nông thôn; chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; chính sách phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung; phát triển rừng bền vững giai đoạn 2021 - 2025.
Cùng với đó, tỉnh đang tập trung phát triển một số hàng hóa chủ lực như chè (trên 8.500 ha), mắc ca (trên 5.200 ha), cây ăn quả (trên 8.200 ha); cao su (gần 13.000 ha); cây gỗ lớn (trên 17.000 ha); dược liệu (17.700 ha).
Đánh giá cao nỗ lực, quyết tâm phát triển nông nghiệp của Lai Châu, Thứ trưởng Lê Quốc Doanh cam kết sự đồng hành của Bộ NN-PTNT với tỉnh.
Ông đồng thời giao nhiệm vụ cụ thể cho các đơn vị của Bộ như Tổng cục Lâm nghiệp, Cục Trồng trọt, Viện Khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp Miền núi phía Bắc hỗ trợ về các công nghệ lõi, xây dựng mô hình vườn mẫu, giúp địa phương phát triển đa dạng các lĩnh vực nông nghiệp.
Phát triển đô thị thông minh gắn với công nghiệp hóa, hiện đại hóa Sáng 10/11, tại Hà Nội, Ban Kinh tế Trung ương tổ chức Hội thảo chuyên đề 3 với chủ đề "Phát triển đô thị thông minh trong quá trình đô thị hóa gắn với công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045". Đây là một trong 10 Hội thảo chuyên đề thuộc khuôn khổ Diễn đàn cấp...