Chuyện cô giáo vùng biển nhận thư khen của Chủ tịch nước
Những phận trẻ mồ côi cha do đi biển đã mãi mãi không trở về, những gia đình quá khó khăn không có tiền cho con đi học, hay những đứa trẻ tật nguyền thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu sự chăm sóc của gia đình đã được cô Nguyễn Thị Thông dạy cho con chữ, lo cho cái ăn, cái mặc, chăm sóc khi ốm đau…
Cứ như vậy trong suốt 12 năm qua, hết khóa học này đến khóa học khác, cô Thông đã tận tâm giúp đỡ hàng trăm học trò nghèo vùng biển xã Ngư Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa mà không thu bất kỳ đồng học phí nào. Cô Thông cũng đã trở thành người bà, người mẹ, người thầy của lũ trẻ nghèo lam lũ ở cái xã nghèo bãi ngang hứng chịu nhiều bão lụt nhất tỉnh Thanh Hóa.
Một giờ dạy học của cô Nguyễn Thị Thông. (Ảnh: Trịnh Duy Hưng/Vietnam )
Cô tiên của những học trò xóm biển nghèo
Cô Nguyễn Thị Thông nguyên là Hiệu trưởng trường Tiểu học Ngư Lộc 2 và được phong tặng danh hiệu Nhà giáo ưu tú năm 1997. Năm 2001, cô Thông nghỉ hưu theo chế độ, nhưng vẫn tâm huyết với sự nghiệp trồng người. Chứng kiến cảnh có làng góa phụ với những đứa trẻ mồ côi do cha đi biển nhưng mãi mãi không trở về, những đứa trẻ da cháy nắng, mái tóc vàng hoe, xơ xác ra biển nhặt tôm cá sau mẻ lưới từ tờ mờ sáng cho kịp phiên chợ… nên không thể đến trường, năm 2002.
Cô Thông đã xin chính quyền xã được mở lớp học tình thương cho trẻ em nghèo ngay tại nhà và không thu học phí.
Nhớ như in những ngày đầu mở lớp với vô vàn những khó khăn, cô chia sẻ: ” lớp học đầu tiên chỉ có 16 em, trong đó có tới 8 em mồ côi. Bàn ghế dành cho học sinh ngồi cũng chỉ là những cánh cửa nhà, cửa bếp ọp ẹp, cũ kỹ được kê trên những viên gạch vỡ. Chiếc bảng viết ngày đó là tấm cót ép đã rách mép…” Đó là tất cả những gì mà cô giáo Nguyễn Thị Thông làm hành trang “gieo” con chữ cho học sinh nghèo giữa làng biển.
Không chỉ dùng đồng lương hưu ít ỏi của mình để mua sách vở, đồ dùng học tập cho các em, cô còn đến các trường trên địa bàn huyện, vận động các nhà hảo tâm để xin sách giáo khoa, vở, bút, đồ dùng học tập… mang về cho các em học sinh nghèo. Việc dạy học cho các em cũng gặp rất nhiều khó khăn do học sinh trong lớp chênh lệch về tuổi khá lớn. Để các em đều nắm được kiến thức, cô đã tận tâm chỉ dạy từng ly, từng tý, coi các em như con em của mình. Với những học sinh nào có học lực yếu hơn sẽ được cô kèm học thêm vào buổi tối, những em có học lực khá hơn kèm học sinh có học lực yếu hơn.
Nhiều học sinh của cô còn thiếu ăn thiếu mặc, thiếu sự chăm sóc của gia đình, có trường hợp đến lớp không được ăn sáng, ăn trưa, các em đói lả tụt huyết áp đến mức bị ngất lịm trong lớp học. Chính vì lý do đó mà trong lớp học của cô luôn có lọ đường và gừng để phòng khi các em bị đói kiệt lả.
Với những gia đình khó khăn này, cô cũng kiến nghị Ủy ban Nhân dân xã Ngư Lộc hỗ trợ 10 kg gạo trong 3 tháng để các em có cái ăn để đi học. Cá biệt có trường hợp học sinh bị ốm không đến lớp được, cô đã đi mua thuốc mang đến tận nhà cho các em, động viên để các em sớm khỏi bệnh tiếp tục đến lớp. Nhiều trường hợp khác thiếu quần, áo mặc, cô đã đến các trường vận động xin quần áo và tự bỏ thêm tiền của mình ra để mua quần áo cho các em…
Những câu chuyện cổ tích ở lớp học
Video đang HOT
12 năm dạy học cho các học trò nghèo đã để lại trong cô rất nhiều kỷ niệm với các thế hệ học trò của mình. Cô Thông tâm sự: suốt cuộc đời tôi có lẽ sẽ không bao giờ quên được hình ảnh của 3 anh em học trò nghèo là Nguyễn Văn Ngọ, Nguyễn Văn Nhân và Nguyễn Thị Thơm khóa học 2002-2007. Các em mồ côi bố do tai nạn tàu thuyền, bị mất trong đợt bão lụt kinh hoàng năm 1996. Bố mất, mẹ phải ra Hà Nội làm thêm, 3 anh em ở với bà.
Do hoàn cảnh quá khó khăn, 2 anh em Ngọ và Nhân chỉ có 1 chiếc quần để đi học. Khi anh đi học thì em nghỉ ở nhà và ngược lại. Thấy lạ, cô Thông hỏi thì Nhân nói là anh Ngọ bị ốm không đi học được. Biết chuyện cô đã đến tận nhà học sinh để hỏi thăm, khi đến nơi thấy Ngọ vội chui tọt vào manh chiếu cũ. Cô hỏi thì Ngọ mới thú thật không có quần để đi học, do hai anh em phải chung một cái quần. Chứng kiến hoàn cảnh của 2 học sinh, cô Thông đã xúc động và hứa sẽ xin quần áo cho anh em Ngọ để 2 anh em được đi học đầy đủ.
Ngay sáng hôm sau, cô đã đến trường tiểu học Ngư Lộc 2 xin các cô giáo trong trường quần, áo và các gia đình học sinh cùng độ tuổi với Ngọ. Khi đã có được quần, áo cô mang về sửa lại cho vừa với 2 anh, em. Có quần áo, cả 3 anh em Ngọ vui lắm, các em đi học cũng rất chăm chỉ. Không những thế Ngọ còn được làm lớp trưởng của lớp khóa học 2002-2007. Đến nay, cả 3 anh em Ngọ, Nhân và Thơm đã trưởng thành và là những ngư dân chăm chỉ của xã.
Không chỉ với 3 anh em nhà Ngọ, Nhân và Thơm, trong các khóa học cũng có rất nhiều mảnh đời bất hạnh nhưng được sự che chở, chăm sóc của cô, các em đã vượt qua khó khăn để quyết tâm đi tìm con chữ. Điển hình là trường hợp em Nguyễn Thị Thùy 11 tuổi bị liệt cả hai chân, nhà lại rất nghèo. Cô Thông đã đến tận nhà vận động bố mẹ cho Thùy đi học. Để có phương tiện đi lại, cô đã xin cho Thùy một chiếc xe lăn. Không phụ lòng cô, Thùy học rất chăm chỉ và là học sinh giỏi của lớp.
Trước tấm lòng của cô giáo nghèo, Ủy ban Nhân dân xã Ngư Lộc đã dành riêng một phòng tại trụ sở Ủy ban Nhân dân xã để cô Thông mở lớp học cho học sinh nghèo. Nhiều tổ chức, cá nhân đã gửi tặng đồ dùng học tập cho lớp học, nhờ vậy các em đã có đầy đủ sách vở, giấy bút để học. Kết thúc mỗi khóa học, cô cũng dành một phần lương hưu của mình mua tặng cho mỗi em 1 bộ quần áo mới để các em có điều kiện tiếp tục được học lên cao hơn.
Với những tâm huyết trong sự nghiệp trồng người, tháng 11/2014, cô Nguyễn Thị Thông vinh dự được chọn là 1 trong 3 giáo viên tiêu biểu của cả nước được Chủ tịch nước gửi thư khen vì những thành tích, cống hiến cho sự nghiệp giáo dục.
Theo Trịnh Duy Hưng
Vietnam
Kỳ diệu những giếng nước ngọt giữa biển khơi
Bao nhiêu năm mưu sinh bằng nghề nuôi ngao, sống trong những chiếc chòi giữa biển khơi, chịu cảnh không điện, không nước ngọt, giờ đây những ngư dân đã làm nên điều kỳ diệu là tìm ra nguồn nước ngọt giữa biển khơi - thứ nước ngọt hơn cả trên đất liền.
Một ngày đầu đông, tôi theo chân những ngư dân Hậu Lộc, Nga Sơn (Thanh Hóa) đi trên một chiếc thuyền máy ra vùng nuôi ngao của họ. Để ra được những chiếc chòi canh ngao đang nằm giữa bao la sóng nước phải vượt quãng đường dài hơn 2 hải lý.
Con thuyền máy nổ phành phạch đưa chúng tôi qua những cánh rừng phòng hộ. Từ cách xa khoảng chừng vài trăm mét, chúng tôi đã bắt đầu thấy thấp thoáng những chiếc chòi canh ngao dựng lô nhô giữa bốn bề sông nước. Phải mất hơn 1 tiếng đồng hồ chúng mới đến được nơi được gọi là "xứ sở của ngao". Ở đó, tôi bắt gặp những gương mặt sạm đen, rám nắng, mặn mòi gió biển.
Hàng trăm chiếc chòi canh ngao của ngư dân lênh đênh trên biển cách đất liền hơn 2 hải l
Anh Bùi Văn Dũng, xã Ngư Lộc, huyện Hậu Lộc vừa đưa chúng tôi đi vừa kể: "Trước đây, nghề nuôi ngao chưa được nhiều người biết đến nên những ai nuôi ngày đó thì giàu to. Nhưng những năm gần đây, người ta nuôi nhiều, giá ngao rớt nên lời chẳng được bao nhiêu, đó là chưa kể đến có những năm mưa bão, không kịp gom ngao mà chỉ lo bỏ của chạy lấy người vào đất liền thôi".
Nói rồi anh Dũng thở dài, đàn ông thì không sao, phụ nữ chân yếu tay mềm nhưng đã gắn với nghề thì cũng cứ phải quăng quật ngày đêm ở ngoài này. Nghề nuôi ngao, lấy đêm làm ngày vì lúc đó nước mới rút, ngao nổi lên thì mới bắt được. Khi thủy triều rút để lộ những vệt loang lổ trên những những chiếc cọc chòi canh ngao là buổi lao động cực nhọc của ngư dân bắt đầu.
Sau một đêm lao động, xúc, rửa sạch sẽ, ngư dân sẽ đưa ngao vào bờ. Sau những chuyến vào đất liền, ngư dân lại vất vả chuẩn bị cơ man là thức ăn, đồ dùng. Những năm trước, không có nước ngọt, họ phải dùng những chiếc xô nhựa, can... để đựng nước, làm sao để có thể dùng cho ít nhất 1 tuần.
Bao nhiêu năm qua, công việc của người nuôi ngao cứ lặp đi lặp lại như thế. Việc có được nước ngọt giữa biển khơi bao la này chỉ là giấc mơ. Vậy mà hơn 1 năm nay, điều kỳ diệu ấy đã trở thành sự thật khi sáng kiến khoan giếng của người dân được thực hiện.
Nước giữa biển ngọt hơn nước đất liền
Việc khoan giếng để tìm nước ngọt giữa biển đã là khó tin vậy mà nguồn nước ngọt ngư dân tìm thấy lại ngọt hơn cả nước trên đất liền. Bao đời nay, do ảnh hưởng của nguồn nước mặn nên nước mà người dân vùng biển Hậu Lộc, Nga Sơn dùng vẫn có vị của biển, không những thế, năm nào cũng phải đối mặt với nỗi lo thiếu nước ngọt trong mùa nắng hạn. Để chống chọi với hạn hán, hầu hết các gia đình ở đây đều phải xây bể dự trữ nước mưa dùng quanh năm. Vậy nên, việc tìm ra nguồn nước ngọt giữa biển khơi mênh mông nước mặn này được xem như là một kỳ tích.
Chúng tôi đến thăm chiếc chòi canh ngao nhà anh Bùi Xuân Ngãi (Nga Tân- Nga Sơn). Anh Ngãi là một trong những người đầu tiên tìm ra nguồn nước ngọt trên biển.
Thứ nước ngọt tìm thấy giữa biển ngọt hơn so với nước ở một số vùng ven biển
Nói về giếng nước ngọt, anh hồ hởi kể lại như khoe về một "chiến tích". Sau khi vay mượn được vài trăm triệu đầu tư vào đồng ngao để mưu sinh, nhưng vì không có nước ngọt, hai vợ chồng anh cứ một tuần lại thay nhau dong thuyền về chở nước ra, vừa vất vả lại tốn kém. Khi nghe người ta nói ở đồng ngao Kim Sơn, Ninh Bình có người khoan được giếng nước ngọt, anh đã chạy ra tận nơi để hỏi thực hư. Nhưng rồi anh được biết thứ nước giếng mà người ngư dân ở Ninh Bình tìm được cũng chỉ để tắm giặt vì vẫn bị lợ, không thể nấu ăn được. Anh thất vọng quay về nhưng vẫn muốn thử ở vùng biển của mình.
Anh quyết tâm tìm thợ chuyên khoan giếng đưa thiết bị máy móc ra chiếc chòi canh lênh đênh giữa biển. Vậy là tranh thủ khoảng 3 tiếng mỗi ngày, khi thủy triều rút khỏi bãi ngao, anh và đội thợ lại hì hụi khoan. Mất 3 ngày, mũi khoan mới chạm đến độ sâu 110m. Và may mắn, mũi khoan đã chạm đúng mạch nước ngọt nằm sâu dưới đáy biển.
"Lúc phát hiện ra mạch nước ngọt, vui đến trào nước mắt. Để chắc rằng thứ nước không bị mặn hay lợ, tôi lấy tất cả nồi niêu, xoong chảo, thùng, can nhựa trong chòi ra đổ nước vào theo dõi. Sau nhiều ngày đựng trong xoong nhôm, thùng nhựa, nước từ giếng khoan vẫn trong veo không đóng váng, không đổi màu đỏ sắt, không có mùi lạ" - anh Ngãi vui mừng nói.
Anh Nguyễn Ngọc Minh, xã Ngư Lộc cũng vui mừng không kém khi nói về giếng nước ngọt đã được tìm thấy của gia đình. "Để khoan một chiếc giếng như thế này phải mất cả tuần mới xong vì vừa khoan vừa dò mạch nước. Như chiếc giếng này, thợ phải khoan sâu 120m. Tính tổng chi phí mất khoảng hơn chục triệu đồng" - anh Minh cho biết.
Có nước ngọt, ngư dân thoải mái dùng sinh hoạt mà không vất vả vào tận đất liền lấy như những năm trước
Theo lời kể của anh Minh thì những năm trước khi chưa có nước ngọt, khoảng một tuần anh lại phải vào bờ chở nước ra để sinh hoạt nên phải dè xẻn. Mỗi lần vào bờ là lỉnh kỉnh đủ thứ can lọ đựng nước ngọt mang ra chủ yếu là phục vụ nấu ăn. Còn tắm giặt có khi để dành vào bờ mới dám tắm. Mỗi lần vào, ra mất đứt 6-7 lít dầu máy. Những ngày nước thủy triều lên cao thì không sao, gặp hôm nước kém, thủy triều xuống cạn thì việc đi lại càng thêm vất vả. Bây giờ thì nước ngọt dùng thoải mái mà quanh năm không bao giờ hết, mà nấu ăn cũng cảm giác ngon hơn thứ nước được chở từ đất liền ra.
Qủa thật, chỉ khi vộc tay lấy một ít nước thử tôi mới tin ngư dân ở đây đã nói không sai, tôi không thể phát hiện ra bất cứ vị mặn, lợ như thứ nước khoan trong đất liền ở các huyện ven biển Thanh Hóa mà tôi đã từng uống.
Tuy nhiên, không phải gia đình nào cũng may mắn khoan được giếng nước ngọt. Nghe tin anh Ngãi tìm được nước ngọt, hàng trăm chủ đồng nuôi ngao ở vùng Hậu Lộc, Nga Sơn kéo đến xem. Họ không tin được ở giữa chốn biển khơi lại có thể mọc lên một giếng nước ngọt. Khi được mục sở thị, nhiều chủ đồng đã mạnh dạn thuê thợ về khoan giếng, nhưng hầu hết đều thất bại. Hàng trăm mũi khoan xuống nhưng chỉ có khoảng mấy chục mũi trúng được nguồn nước ngọt.
Anh Nguyễn Văn Ngọc, trú tại xã Ngư Lộc cho biết: "Chúng tôi cũng đã khoan thử nhưng không được. Có những chỗ khoan sâu đến 140m mà vẫn không thấy nước. Trong khi đó cách nhà tôi không xa, nhà hàng xóm bên cạnh lại có".
Chia tay những gương mặt sạm đen, rám nắng trên những chiếc chòi lênh đênh giữa biển, chúng tôi trở lại đất liền khi thủy triều lên cao, những cơn gió thổi phần phật trên các mái chòi, từng con sóng lớn nối nhau tung bọt trắng xóa tựa như niềm vui của ngư dân khi tìm ra nguồn nước ngọt giữa biển khơi bao la...
Nguyễn Thùy
Theo Dantri
Dự án trên núi Hải Vân: Phải do Thủ tướng chỉ đạo! "Về dự án Khu du lịch nghỉ dưỡng quốc tế World ShineHuế tất cả đều phải do Thủ tướng chỉ đạo". Thượng tướng Đỗ Bá Tỵ, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đã nói như vậy với Đất Việt bên hành lang Quốc hội chiều 20/11 khi được hỏi về quan điểm của Bộ đối với dự án Khu du lịch nghỉ dưỡng quốc...