Chứng khoán phái sinh Việt Nam cần học để tăng trưởng bền vững
Sau 2 năm hoạt động, thị trường chứng khoán (TTCK) phái sinh Việt Nam đã cho thấy tiềm năng phát triển lớn, nhưng để tăng trưởng bền vững, vẫn còn nhiều việc phải làm.
Hiện tại, trên thị trường phái sinh Việt Nam mới có 2 loại sản phẩm là hợp đồng tương lai chỉ số VN30 và hợp đồng tương lai trái phiếu chính phủ kỳ hạn 5 năm.
Bà Nguyễn Thị Thu Hà, Trưởng phòng TTCK phái sinh (Sở GDCK Hà Nội – HNX) cho biết, Sở lựa chọn sản phẩm hợp đồng tương lai vì đơn giản hơn so với sản phẩm quyền chọn và các sản phẩm này đang thu hút sự quan tâm của các chuyên gia, nhà đầu tư cả trong và ngoài nước.
Để có thể trưởng thành từ nền tảng non trẻ hiện tại và tăng trưởng bền vững, theo bà Hà, việc học hỏi các thị trường phái sinh phát triển hơn là điều cần thiết và HNX đã tham khảo, nghiên cứu về thị trường phái sinh Đài Loan thông qua sự tư vấn của các chuyên gia đến từ Công ty Chứng khoán Yuanta Việt Nam.
TTCK Đài Loan hiện là một trong những thị trường hàng đầu thế giới với vốn hóa trên 1.000 tỷ USD, giá trị giao dịch khoảng 6 tỷ USD/ngày, với khoảng 73 công ty chứng khoán cùng hoạt động.
Giai đoạn 2010-2018, mức tăng trưởng thị trường hợp đồng tương lai Đài Loan đạt hơn 100%. Riêng năm 2018, tổng giao dịch phiên đêm tăng 20%.
Hiện tại, thị trường phái sinh Đài Loan có gần 300 danh mục sản phẩm. Sở giao dịch tương lai Đài Loan nằm trong Top 17 thị trường tương lai lớn nhất thế giới.
Chia sẻ giải pháp cải thiện thanh khoản, ông Enoch He, Giám đốc khu vực Đài Trung Yuanta cho biết, có 3 yếu tố: Thứ nhất, chính sách mở cửa của Chính phủ, bởi điều này quyết định việc tham gia thị trường của nhà đầu tư nước ngoài.
Video đang HOT
Thứ hai, đẩy mạnh hoạt động đào tạo, hướng dẫn, cung cấp thông tin tới nhà đầu tư. Thực tế, thị trường phái sinh là thị trường bậc cao trong lĩnh vực tài chính.
Trong khi đó, phái sinh mới xuất hiện tại Việt Nam 2 năm qua, nên mức độ e ngại của nhà đầu tư còn lớn khi chưa thực sự hiểu về hoạt động đầu tư, cũng như sản phẩm trên thị trường.
Thứ ba, cần cải thiện nền tảng, hệ thống giao dịch, trong đó chú trọng vấn đề công bố thông tin.
Khi thị trường có biến động, khách hàng là người cần nắm rõ thông tin nhất. Để cải thiện vấn đề này tại Việt Nam, việc phát triển các ứng dụng tư vấn tự động là cần thiết và nên được đẩy mạnh.
“Nhu cầu tìm kiếm lợi nhuận và phòng ngừa rủi ro của khối ngoại trên thị trường Việt Nam là rất cao khi trong 5 năm qua, khối lượng giao dịch tăng gấp 2 lần. Thị trường Đài Loan đã tăng trưởng đáng kể từ khi có sự tham gia của khối ngoại.
Trong thời gian tới, khi khối ngoại có sự hiện diện tích cực hơn tại thị trường phái sinh Việt Nam, tôi tin rằng, thị trường sẽ nhanh chóng tăng trưởng”, ông Enoch He nhấn mạnh.
Ghi nhận ý kiến từ một số nhà đầu tư, câu chuyện thuế phí là vấn đề gây bận tâm nhất hiện nay. Một nhà đầu tư tại Hà Nội cho biết, hiện mức tổng thuế phí phải nộp cao, nhiều ngày giao dịch kết thúc lỗ do thuế, phí.
Thực tế, nhiều quốc gia trên thế giới đã miễn thuế ở giai đoạn đầu khi sản phẩm phái sinh là hợp đồng tương lai chỉ số cổ phiếu đi vào vận hành. Tuy nhiên, Việt Nam đang áp dụng mức thuế, phí khá cao.
Đáng chú ý, thị trường Đài Loan cũng từng áp thuế giao dịch cao, ở mức 0,5% giá trị giao dịch trong thời điểm đầu đi vào giao dịch năm 1998.
Tuy nhiên, sau này, để nâng cao sức cạnh tranh với các thị trường khác trong việc thu hút nhà đầu tư nước ngoài, Đài Loan đã liên tục giảm thuế giao dịch đối với sản phẩm phái sinh, tính đến cuối năm 2018, mức áp dụng chỉ còn 0,002%.
Theo Tinnhanhchungkhoan.vn
Lộc Trời (LTG) đạt 292 tỷ lãi ròng 9 tháng đầu năm, tăng 24% chủ yếu nhờ mảng thuốc bảo vệ thực vật thuận lợi
9 tháng đầu năm, doanh thu thuốc bảo vệ thực vật tăng trưởng và chiếm tỷ trọng hơn 50% doanh thu Lộc Trời (LTG) với 3.820 tỷ đồng. Tăng trưởng còn có doanh thu bao bì và doanh thu khác. Ngược lại, doanh thu lương thực - gạo giảm đáng kể, từ 2.335 tỷ về 1.942 tỷ đồng, hạt giống cây trồng cũng giảm.
Tập đoàn Lộc Trời (LTG) vừa công bố BCTC hợp nhất quý 3/2019 với doanh thu thuần 1.939,6 tỷ đồng, giảm nhẹ so với cùng kỳ. Tương ứng lợi nhuận gộp thu về 348 tỷ, giảm so với mức 390 tỷ thu về hồi quý 3/2018.
Về chi phí, LTG tiết giảm đáng kể các loại từ chi phí lãi vay, quản lý đến chi phí bán hàng. Kết quả, Công ty tăng lãi trước thuế từ 53 tỷ lên gần 63 tỷ đồng. Khấu trừ chi phí thuế TNDN, Công ty còn lãi ròng 42 tỷ, giảm so với mức 45 tỷ cùng kỳ.
Luỹ kế 9 tháng đầu năm, LTG ghi nhận doanh thu 6.597 tỷ, lợi nhuận sau thuế 292 tỷ đồng, tăng 24%.
Trong đó, doanh thu thuốc bảo vệ thực vật tăng trưởng và chiếm tỷ trọng hơn 50% doanh thu với 3.820 tỷ đồng. Tăng trưởng còn có doanh thu bao bì và doanh thu khác. Ngược lại, doanh thu lương thực - gạo giảm đáng kể, từ 2.335 tỷ về 1.942 tỷ đồng, hạt giống cây trồng cũng giảm.
Theo LTG, 9 tháng đầu năm ngành lương thực đối mặt với điều kiện thị trường xuất khẩu khó khăn. Việc giá lúa thương phẩm sụt giảm từ đầu năm, chạm đáy trong quý 3 đã dẫn tới diện tích gieo trồng lúa giảm 3%. Một hệ quả gián tiếp là sự chuyển dịch trong cơ cấu giống lúa được sử dụng trên thị trường. Cụ thể, thay vì lựa chọn các giống gạo trắng thông thường (được bán xuất khẩu với giá thấp, giá biến động không ổn định), một bộ phận nông dân có xu hướng đầu tư vào các giống lúa thơm, phẩm chất cao như Jasmine 85, OM 18,.. để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu vào các thị trường cao cấp trả giá cao và nhu cầu ổn định.
Về mảng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV), nhu cầu đối với thuốc trừ bênh và thuốc trừ sâu khá tương đồng với tình hình dịch hại do nấm/vi khuẩn và sâu/côn trùng gây ra. Cầu tăng vọt đối với sản phẩm thuốc BVTV chứa hoạt chất Glyphosate dẫn đến doanh thu của nhóm sản phẩm thuốc trừ cỏ tăng mạnh tới 38%. Do ảnh hưởng bởi tính thời vụ, doanh thu của ngành thuốc BVTV dự kiến sẽ tăng trưởng mạnh hơn trong quý 4/2019 khi nông dân bắt đầu gieo trồng vụ Đông - Xuân.
So với kế hoạch 8.287 tỷ doanh thu và 460 tỷ lãi sau thuế, 9 tháng đầu năm LTG lần lượt thực hiện được 80% chỉ tiêu doanh thu và 63,5% chỉ tiêu lãi ròng.
Dự báo xu hướng cho quý cuối năm, LTG cho biết dự kiến các giống lúa thuần sẽ bán chạy trong quý 4 để chuẩn bị gieo trồng cho vụ mùa chính trong năm - vụ Đông Xuân. Với giống bắp, quý 4 không phải là mùa vụ chính, do đó, nhu cầu bắp giống chủ yếu tập trung ở các giống bắp lai kháng sâu bệnh tốt, phù hợp thổ nhưỡng khu vực Miền Đông - Tây Nguyên.
Nói về thị trường gạo 9 tháng đầu năm, ghi nhận bởi Tập đoàn, Việt Nam xuất khẩu 5,09 triệu tấn gạo, tăng 1,3% về lượng nhưng giá trị xuất khẩu giảm 12,3%. Giá bán gạo trung bình giảm 13,8% so với cùng kỳ năm trước. Giá gạo 5% tấm xuất khẩu của Việt Nam biến động theo chiều hướng giảm từ tháng 11/2018 cho đến nay, có thời điểm giá gạo đã chạm mốc thấp nhất 12 năm là 325 USD/tấn.
Nhìn chung, cơ cấu thị trường xuất khẩu vẫn không thay đổi nhiều so với 6 tháng 2019, khi Philippines tiếp tục dẫn đầu chiếm 38% tổng lượng xuất khẩu - tăng 1% theo quý), nhập khẩu của thị trường Bờ Biển Ngà và Ghana đứng thứ hai, chiếm 14%. Malaysia đạt 9% - giảm 2%. Thị trường Trung Quốc duy trì ở mức 8%, không đổi so với 6 tháng 2019. Thị trường Cuba giảm nhẹ 2%, về mốc 6%.
Trong đó, Trung Quốc tiếp tục áp dụng các biện pháp hạn chế nhập khẩu gạo từ Việt Nam trong bối cảnh tồn kho trong nước cao do nguồn cung nội địa tăng khi bước vào thời điểm thu hoạch trong các tháng cuối năm.
Còn Philippines dù vẫn tăng trưởng tốt, nhưng đang có dấu hiệu điều chỉnh sau thời gian nới lỏng các chính sách nhập khẩu dẫn đến cung vượt cầu, giá gạo giảm làm sản xuất trong nước gặp khó khăn. Hiện tại, nước này đang dùng biện pháp kỹ thuật là ngưng cấp giấy chứng nhận Vệ sinh và kiểm dịch động thực vật (SPS) cho các l-ô hàng nhập khẩu từ Việt Nam.
Tri Túc
Theo Trí thức trẻ
Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ vẫn lạc quan, doanh nghiệp được dự báo tiếp tục lãi lớn Từ đầu năm tới nay, doanh thu phí gốc bảo hiểm phi nhân thọ đã tăng 20% so với cùng kỳ năm trước... Theo báo cáo cập nhật thị trường quý 4/2019 của Công ty chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BSC), thị trường bảo hiểm phi nhân thọ được dự báo tiếp tục tăng trưởng cao trong...