Chưa nên siết thêm tín dụng ngoại tệ
Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 đã đưa ra mục tiêu giảm dần tỷ lệ tín dụng ngoại tệ/tổng tín dụng, tiến tới ngừng cho vay ngoại tệ.
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Dù trong vòng 1 năm qua, siết tín dụng ngoại tệ đã đạt được một số kết quả tích cực, song nhiều chuyên gia cho rằng chưa nên tính tới chuyện siết chặt thêm hoạt động này, nhất là khi xuất khẩu vẫn gặp khó khăn do COVID-19.
Đến nay đã gần tròn 1 năm kể từ khi NHNN ngừng cho vay ngoại tệ trung và dài hạn để thanh toán ra nước ngoài tiền nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ nhằm thực hiện phương án sản xuất, kinh doanh hàng hóa để phục vụ nhu cầu trong nước.
Không gây xáo trộn thị trường
Theo quy định của Thông tư số 42/2018/TT-NHNN, kể từ ngày 1/10/2019, các tổ chức tín dụng (TCTD) đã dừng cho vay ngoại tệ trung và dài hạn. Trước đó từ 1/4/2019, các TCTD cũng đã chấm dứt việc cho vay ngoại tệ ngắn hạn để thanh toán ra nước ngoài tiền nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ nhằm thực hiện phương án sản xuất, kinh doanh hàng hóa để phục vụ nhu cầu trong nước.
Đến nay đã gần tròn 1 năm kể từ ngày Thông tư 42/2018/TT-NHNN có hiệu lực, song việc siết tín dụng ngoại tệ gần như chưa gây nhiều xáo trộn trên thị trường. Lý giải về vấn đề này, một chuyên gia ngân hàng cho biết, theo quy định hiện hành, các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước vẫn được vay ngoại tệ, không chỉ phục vụ thanh toán tiền nhập khẩu nguyên vật liệu, mà còn đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất hàng xuất khẩu.
Còn với các doanh nghiệp nhập khẩu hàng tiêu dùng trong nước, do không có nguồn thu ngoại tệ nên từ lâu đã không thuộc đối tượng được vay ngoại tệ nữa mà họ thường phải mua ngoại tệ từ ngân hàng để thanh toán tiền hàng nhập khẩu.
Video đang HOT
Cũng có ý kiến cho rằng, việc siết chặt đối tượng được vay ngoại tệ khiến tín dụng ngoại tệ sụt giảm. Trên thực tế, mặc dù thời gian gần đây không thấy NHNN công bố số liệu về tín dụng ngoại tệ, song theo cơ quan Thống kê TP.HCM – thị trường tiền tệ lớn và sôi động nhất cả nước, thì tín dụng ngoại tệ giảm nhẹ so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, tính đến đầu tháng 8/2020, tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn thành phố tăng 9,09% so với cùng kỳ năm trước, nhưng dư nợ tín dụng bằng ngoại tệ lại giảm 4,14%.
Theo vị chuyên gia ngân hàng nói trên, tín dụng ngoại tệ giảm chỉ một phần nhỏ là do tác động của Thông tư 42, còn chủ yếu do cầu tín dụng giảm. Bởi vì, đại dịch COVID-19 một mặt đã làm gián đoạn chuỗi cung ứng nguyên vật liệu, đồng thời cũng khiến hoạt động xuất khẩu bị ngưng trệ, hệ quả là các doanh nghiệp cũng hạn chế vay ngoại tệ để nhập khẩu nguyên vật liệu làm hàng xuất khẩu.
Cần có lộ trình cụ thể
Cho rằng việc NHNN không giới hạn thời gian vay ngoại tệ đối với doanh nghiệp xuất khẩu là điều rất tích cực, TS. Nguyễn Trí Hiếu – Chuyên gia ngân hàng phân tích, hiện lãi suất vay ngoại tệ thấp hơn lãi suất vay tiền đồng khá nhiều, từ đó giúp doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí vốn, hạ giá thành sản phẩm để nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu.
Trong khi việc siết tín dụng ngoại tệ đối với nhu cầu nhập khẩu hàng tiêu dùng trong nước cũng góp phần hạn chế việc nhập khẩu các hàng hóa tiêu dùng xa xỉ, từ đó góp phần giúp cán cân thương mại liên tục thặng dư. Ước tính 8 tháng đầu năm nay, cả nước xuất siêu tới 11,9 tỷ USD.
Đặc biệt, việc siết dần tín dụng ngoại tệ cũng phù hợp với chủ trương chống đôla hóa trong nền kinh tế. Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 cũng đưa ra mục tiêu giảm dần tỷ lệ tín dụng ngoại tệ/tổng tín dụng, tiến tới ngừng cho vay ngoại tệ để chậm nhất đến năm 2030 cơ bản khắc phục tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế.
Trên thực tế, việc siết chặt hơn hoạt động cho vay ngoại tệ thời gian qua đã góp phần duy trì ổn định tỷ giá. Còn nhớ những năm trước đây, tốc độ tăng tín dụng ngoại tệ thường cao hơn nhiều so với tín dụng bằng đồng nội tệ do lãi suất vay ngoại tệ thấp hơn. Hệ quả là giai đoạn cuối năm, khi nhiều khoản vay đến kỳ đáo hạn, các doanh nghiệp lại đổ xô mua gom ngoại tệ trên thị trường để trả nợ, khiến thị trường ngoai hối những tháng cuối năm thường “nổi sóng”.
Tuy nhiên, tình hình hiện nay đã khác. Đặc biệt từ đầu năm đến nay, do tín dụng ngoại tệ sụt giảm, cộng thêm nguồn cung ngoại tệ trong nền kinh tế dồi dào đã giúp thị trường ngoại tệ, tỷ giá cơ bản ổn định bất chấp những biến động từ bên ngoài. Tỷ giá ổn định chẳng những giúp NHNN không phải tiêu tốn kho dự trữ ngoại hối, mà còn mua thêm được nhiều ngoại tệ để bổ sung cho quỹ dự trữ ngoại hối. Số liệu được công bố tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 8 vừa diễn ra mới đây cho thấy, hiện dự trữ ngoại tệ của Việt Nam đã đạt tới mức kỷ lục mới, 92 tỷ USD.
Mặc dù tiếp tục siết chặt tín dụng ngoại tệ, tiến tới chấm dứt hoàn toàn hoạt động này theo Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 là cần thiết, song giới chuyên gia cũng cho rằng, cần có lộ trình cụ thể. Đặc biệt trong bối cảnh xuất khẩu vẫn đang gặp nhiều khó khăn do đại dịch COVID- 19, cơ quan quản lý chưa nên tính tới việc siết chặt thêm tín dụng ngoại tệ.
Bổ sung quy định về phí dịch vụ thanh toán qua Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 26/2013/TT-NHNN ban hành Biểu phí dịch vụ thanh toán qua Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cho biết, đã mở tài khoản ngoại tệ bằng EUR cho Kho bạc Nhà nước (KBNN) và một số tổ chức tín dụng (TCTD) có nhu cầu. Theo đó, thực tế đã có phát sinh các giao dịch chuyển tiền quốc tế bằng đồng EUR (bao gồm chuyển tiền đi và chuyển tiền đến). Tuy nhiên, tại Thông tư số 26/2013/TT-NHNN hiện mới chỉ quy định mức phí dịch vụ thanh toán quốc tế bằng USD, do đó, cần phải bổ sung quy định mức phí dịch vụ thanh toán quốc tế bằng EUR để làm cơ sở cho việc thu phí dịch vụ thanh toán quốc tế bằng EUR .
Cụ thể, dự thảo Thông tư bổ sung Điều 1b quy định về Phí duy trì số dư tiền gửi trên tài khoản thanh toán bằng ngoại tệ, như sau:
1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thu phí duy trì số dư tiền gửi trên tài khoản thanh toán bằng ngoại tệ của Kho bạc Nhà nước, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước. Phí duy trì số dư tiền gửi trên tài khoản thanh toán bằng ngoại tệ được tính trên cơ sở số dư thực tế, số ngày duy trì số dư và mức phí quy đổi theo tỷ lệ %/năm. Mức phí do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định trong từng thời kỳ.
2. Việc thu phí duy trì số dư tiền gửi trên tài khoản thanh toán bằng ngoại tệ được thực hiện như sau:
a) Định kỳ hàng tháng, Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước tính và thu phí phí duy trì số dư tiền gửi trên tài khoản thanh toán bằng ngoại tệ của Kho bạc Nhà nước, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định tại điểm b khoản này.
b) Số phí phải thu trong tháng được tính bằng công thức sau:
- Tổng số phí phải thu trong tháng bằng tổng số phí phải thu từng ngày trong tháng đó.
- Số phí phải thu từng ngày được tính theo công thức sau:
Số phí phải thu
từng ngày
=
Số dư thực tế x Mức phí duy trì số dư tiền gửi trên
tài khoản thanh toán bằng ngoại tệ
365
NHNN cho biết lý do bổ sung quy định Phí duy trì số dư tiền gửi trên tài khoản thanh toán bằng ngoại tệ nhằm bù đắp chi phí mà đối tác nước ngoài thu của NHNN.
Bên cạnh đó,dự thảo cũng sửa đổi, bổ sung phần IV - Phí dịch vụ thanh toán quốc tế của Biểu phí dịch vụ thanh toán qua NHNN, cụ thể bổ sung:
Phí chuyển tiền ra nước ngoài bằng EUR là 0,15% số tiền chuyển (tối thiểu 2 EUR/món, tối đa 200 EUR/món).
Phí nhận tiền từ nước ngoài chuyển đến bằng EUR là 0,05% số tiền chuyển (tối thiểu 1 EUR/món, tối đa 100 EUR/món).
Mời bạn đọc xem toàn văn dự thảo và góp ý tại đây.
Thị trường tài chính 24h: Giới đầu tư chứng khoán toàn cầu giao dịch thận trọng VN-Index vẫn gặp khó ở vùng quanh 900 điểm; Bị tước quyền tự quyết room ngoại, ngân hàng bị dồn vào thế khó - Bài 3; Giao dịch chứng khoán: Giới đầu tư "lướt sóng" theo động thái của ETF; Quỹ đầu tư từ Trung Quốc dồn dập đổ tiền vào chứng khoán Việt Nam; Giá cổ phiếu nhảy múa với thông tin...