Chủ tịch UBCK Nhà nước: Thị trường vẫn nhiều cơ hội thuận lợi
Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước Trần Văn Dũng cho biết sự biến động của thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam thời gian qua diễn ra trong bối cảnh TTCK thế giới giảm trước tác động của tình hình kinh tế, chính trị thế giới, lo ngại về chiến tranh thương mại Mỹ – Trung, cộng thêm TTCK Việt Nam đã tăng mạnh trong một thời gian dài và đang bước vào giai đoạn điều chỉnh.
Thưa ông, ông đánh giá như thế nào về sự phát triển của TTCK Việt Nam trong 5 tháng đầu năm 2018?
- TTCK đã có sự tăng trưởng mạnh trong quý I.2018, chỉ số VN-Index đã bứt phá ra khỏi vùng đỉnh lịch sử được thiết lập năm 2007, đạt 1.204,33 điểm vào ngày 9.4.2018, tăng 22,4% so với cuối năm 2017.
Thị trường chứng khoán biến động mạnh trong thời gian qua. Ảnh: T.L
” … Với kinh tế vĩ mô tăng trưởng tốt; thị trường tài chính – tiền tệ, ngoại hối ổn định, mặt bằng lãi suất cho vay (bằng VNĐ) có xu hướng giảm; khối ngoại vẫn tiếp tục vào ròng, chưa có dấu hiệu rút vốn khỏi TTCK; tình hình sản xuất kinh doanh, lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết vẫn ổn định, về dài hạn, TTCK Việt Nam vẫn còn có nhiều cơ hội diễn biến thuận lợi trong thời gian tới”. Chủ tịch UBCK Nhà nước Trần Văn Dũng
Tuy nhiên, từ giữa tháng 5.2018 đến ngày 23.5, thị trường có xu hướng điều chỉnh với những phiên tăng giảm mạnh đan xen. Tính từ thời điểm VnIndex đạt đỉnh cao nhất lịch sử, chỉ số VnIndex đã giảm 18% xuống còn 985,92 điểm vào ngày 24.5. Mặc dù chỉ số giảm nhưng mức vốn hóa thị trường cổ phiếu vẫn tăng mạnh do nửa đầu năm 2018 có nhiều doanh nghiệp quy mô lớn lên niêm yết, tiêu biểu là Công ty CP Vinhomes. Quy mô vốn hóa thị trường đạt 3.846 nghìn tỷ đồng, tăng 9,4% so với cuối năm 2017, tương đương 76,8% GDP.
Nhà đầu tư nước ngoài bán ròng khá mạnh trong tháng 5. Tính đến ngày 23.5, giá trị bán ròng của nhà đầu tư nước ngoài đạt 4.229 tỷ đồng trên cả hai sàn. Tuy nhiên, dòng vốn nước ngoài vẫn tiếp tục vào ròng ở mức độ tương đối cao, đạt 615 triệu USD trong tháng 4 và 450 triệu USD trong nửa đầu tháng 5.2018, chứng tỏ nhà đầu tư nước ngoài vẫn kỳ vọng ở sự tăng trưởng của thị trường và sẵn sàng giải ngân ở thời điểm thích hợp.
Tổng mức huy động trên TTCK Việt Nam 5 tháng đầu năm ước đạt 90.000 tỷ đồng (giảm 32% so với cùng kỳ). 5 tháng đầu năm 2018 đã huy động về cho ngân sách nhà nước được hơn 57,6 nghìn tỷ đồng thông qua đấu thầu trái phiếu Chính phủ, và 26,4 nghìn tỷ đồng thông qua cổ phần hóa và thoái vốn qua 2 Sở.
Vì sao TTCK Việt Nam lại xuất hiện những biến động mạnh trong thời gian qua?
- Trước hết, sự biến động điều chỉnh của TTCK Việt Nam diễn ra trong bối cảnh TTCK thế giới điều chỉnh giảm trước tác động của tình hình kinh tế, chính trị thế giới. Căng thẳng thương mại Mỹ – Trung có giảm song chưa xóa bỏ được lo ngại của giới đầu tư về việc hai nền kinh tế lớn nhất thế giới này vẫn có thể mắc vào một cuộc chiến tranh thương mại.
Ngoài ra, FED sẽ tăng lãi suất trong tháng 6 và khả năng Ngân hàng Trung ương châu Âu cũng tăng lãi suất sớm hơn dự kiến. Nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu có xu hướng rút tiền khỏi các thị trường mới nổi, trong đó có khu vực Đông Nam Á. Thị trường chứng khoán thế giới từ Mỹ, châu Âu, châu Á đều đã điều chỉnh giảm từ tháng 1.2018, mức giảm phổ biến từ 7 – 10%.
Bên cạnh đó, TTCK Việt Nam đã tăng mạnh trong một thời gian dài và đang bước vào giai đoạn điều chỉnh. VnIndex năm 2017 tăng 48% và tăng tiếp 17% trong quý I.2018 nên các nhà đầu tư đều có tâm lý chốt lời. Tâm lý đó diễn ra đúng vào thời điểm TTCK thế giới điều chỉnh giảm nên tác động cộng hưởng càng lớn.
Do tác động tình hình kinh tế, chính trị trong nước và thế giới, cả nhà đầu tư nước ngoài và trong nước thời gian gần đây đều có xu hướng chốt lời đối với các cổ phiếu đã có mức tăng giá mạnh từ đầu năm, dè dặt trong giải ngân mới mà chờ đợi cơ hội thích hợp để tiếp tục đầu tư.
Video đang HOT
Tuy nhiên, với kinh tế vĩ mô tăng trưởng tốt; thị trường tài chính – tiền tệ, ngoại hối ổn định, mặt bằng lãi suất cho vay (bằng VNĐ) có xu hướng giảm; khối ngoại vẫn tiếp tục vào ròng, chưa có dấu hiệu rút vốn khỏi TTCK; tình hình sản xuất kinh doanh, lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết vẫn ổn định, về dài hạn, TTCK Việt Nam vẫn còn có nhiều cơ hội diễn biến thuận lợi trong thời gian tới.
Ông có thể chia sẻ về định hướng trong công tác phát triển TTCK Việt Nam thời gian tới?
- Ưu tiên của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước trong năm nay là bảo đảm duy trì sự ổn định và bền vững của TTCK, phát triển TTCK theo chiều sâu và kiên trì công tác tái cấu trúc TTCK.
Để tiếp tục phát huy những thành quả đạt được, đảm bảo phát huy vai trò là kênh huy động vốn cho Chính phủ, doanh nghiệp và cho nền kinh tế, đồng thời ngày càng thu hút nhà đầu tư trong nước và quốc tế, công tác xây dựng chính sách phát triển TTCK thời gian tới sẽ tiếp tục tập trung vào một số giải pháp sau:
Thứ nhất, hoàn thiện khung pháp lý và nâng cao năng lực quản lý, giám sát, trong đó trọng tâm là triển khai xây dựng Luật Chứng khoán sửa đổi trình Bộ Tài chính trình Chính phủ, dự kiến trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến trong năm 2018 và thông qua vào năm 2019.
Thứ hai, tiếp tục tham gia có hiệu quả vào công tác huy động vốn cho ngân sách nhà nước, vào công tác cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp gắn với việc niêm yết và đăng ký giao dịch để tranh thủ cơ hội tăng quy mô của thị trường; kết hợp công tác tăng quy mô với tăng chất lượng của doanh nghiệp thông qua việc thi hành Nghị định 71/2017/NĐ-CP.
Thứ ba, tiếp tục tái cấu trúc tổ chức vận hành thị trường, hoàn thiện và hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin, nâng cao chất lượng hoạt động và giao dịch trên TTCK thông qua: (i) Hợp nhất các SGDCK và phát triển, phân định các khu vực thị trường – thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu và TTCKPS – để nâng cao vị thế của SGDCK Việt Nam trong khu vực ASEAN; (ii) Triển khai hệ thống CNTT hiện đại, toàn diện cho thị trường tại các SGDCK, TTLKCK và các dự án ứng dụng CNTT phục vụ quản lý, giám sát thị trường tại UBCKNN.
Thứ tư, tiếp tục đẩy nhanh quá trình chuẩn bị triển khai các sản phẩm mới, trong đó có sản phẩm ẩm chứng quyền có đảm bảo (CW) tại HOSE và sản phẩm HĐTL TPCP tại SGDCK Hà Nội trong năm nay.
Thứ năm, phối hợp với các đơn vị liên quan chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho sự hình thành thị trường trái phiếu doanh nghiệp, dự kiến đưa thị trường này vào giao dịch năm 2019.
Thứ sáu, tiếp tục tăng cường công tác thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm trên TTCK. Công tác giám sát sẽ được tiến hành toàn diện đối với các hoạt động thao túng giá chứng khoán hoạt động CBTT và tuân thủ của các CTĐC, hoạt động của các SGDCK, TTLKCK, công ty chứng khoán (CTCK) và các công ty kiểm toán hiện nay đang kiểm toán các CTĐC. Chúng tôi cho rằng đây là nhiệm vụ rất quan trọng nhằm bảo đảm sự công bằng, minh bạch cho TTCK, từ đó thúc đẩy thị trường phát triển bền vững.
Xin cảm ơn ông!
Theo Danviet
Lãi suất cho vay lên tới 47,65%/năm, khác gì tín dụng đen?
Theo cập nhật mới nhất tại một công ty tài chính tiêu dùng đứng đầu thị trường thì mức lãi suất đang áp dụng với các khoản vay tín chấp tại công ty này có thể lng 35,4%/năm. Thậm chí, có một công ty tài chính trong TP.HCM còn có lãi suất cho vay lên tới 47,65%/năm, mức lãi suất này có khác gì tín dụng đen?
Lãi suất cho vay tại các công ty tài chính có thể lên tới 35%/năm, thực tế thậm chí còn cao hơn.
Trong công văn gửi cử tri, giải trình về câu chuyện lãi suất cho vay tại các công ty tài chính hiện không được công bố rõ ràng, gây rủi ro cho khách hàng, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) khẳng định theo Luật các tổ chức tín dụng thì "Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thoả thuận về lãi suất cấp tín dụng trong hoạt độn của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật". Bản thân các công ty Tài chính cũng đang áp dụng quy định này, lãi suất là thoả thuận giữa 2 bên và không bị giới hạn bởi bất cứ khung trần lãi suất nào.
Quy định nêu trên được coi là phù hợp với quy luật cung cầu của nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay việc còn nhiều mập mờ xung quanh chuyện công bố mức lãi suất tại các công ty tài chính làm tình trạng tranh chấp giữa khách hàng và công ty thường xuyên xảy ra.
Gần đây nhất có trường hợp một khách hàng tại TP.HCM tố cáo một công ty tài chính, khi vay tín chấp 70 triệu đồng với thoả thuận ban đầu là lãi suất 2,1%. Tuy nhiên sau đó, công ty này đã làm lại hồ sơ cho vay với lãi suất lên tới 3,92%/tháng (47,65%/năm).
Muôn màu lãi suất cho vay tín chấp
Theo cập nhật của một công ty tài chính lớn nhất trên thị trường Việt Nam hiện nay là FE Credit, mức lãi suất để cho vay tín chấp giao động từ 1,4%/tháng đến 2,95%/tháng. Như vậy nếu khoản vay có thời hạn 1 năm thì mức lãi suất sẽ rơi vào khoảng từ 17,2%/năm đến 35,4%/năm.
Nếu so lãi suất của công ty tài chính với lãi suất ngân hàng thì có thể thấy mặt bằng lãi suất rõ ràng chênh lệch nhau rất lớn. Trong khi các ngân hàng cho vay với mức lãi suất phổ biến là 6-10% còn các công ty tài chính này là 17-35%.
Như vậy, với một mức vay khoảng 70 triệu (giới hạn cho vay tín chấp tiêu dùng một vài công ty đang áp dụng), đến cuối năm người vay tiền có thể phải trả thêm 24,78 triệu đồng tiền lãi. Tổng cộng khách hàng phải trả 94,78 triệu cả gốc và lãi, nếu người cho vay trả đúng hạn. Còn nếu khách hàng không trả lãi đúng hạn thì lãi mẹ sẽ đẻ lãi con, lãi của lãi tháng trước sẽ được cộng vào để tính lãi cho tháng sau, cộng thêm các khoản phạt do trả chậm và phí.
Lãi suất cao là vậy, nhưng các công ty tài chính vẫn được nhiều khách hàng ưu tiên lựa chọn, bởi thủ tục cho vay nhanh gọn, không cần tài sản thế chấp, giải ngân nhanh, có khi chưa đầy 12 tiếng đã có thể hoàn thiện mọi thủ tục và tiền đến tay khách hàng.
Tuy nhiên, chính vì cho vay đơn giản đơn giản như vậy, nên rủi ro của các khoản vay tại các công ty tài chính là rất lớn. Để làm rõ hơn lý do tại sao mức lãi suất tại các công ty tài chính cao như vậy? Và những rủi ro nào đang tiềm ẩn tại đây? dưới đây là ý kiến của TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính ngân hàng về vấn đề này.
TS. Nguyễn Trí Hiếu, Chuyên gia tài chính ngân hàng
Rủi ro càng lớn, lãi suất càng cao
Có nhiều năm kinh nghiệm công tác trong ngành ngân hàng, ông Hiếu cho biết: Rủi ro món vay càng lớn, đi đôi với nó là lãi suất càng cao.
Giải thích một cách chuyên ngành thì các ngân hàng có càng nhiều các khoản vay rủi ro, dễ mất vốn thì càng cần đẩy mạnh cho vay và lãi suất phải càng cao để tăng tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM). Ví dụ, một ngân hàng có hệ số NIM là 2%, có nghĩa là cứ mất đi một khoản vay giá trị 100 đồng thì họ lại cần 50 khoản vay mới để bù vào khoản vay có giá trị 100 đồng mà không thù hồi được vốn đó.
Các công ty tài chính cũng dùng chung 1 công thức như trên để tính lãi suất, nhưng NIM phải cao hơn nhiều, vì các khoản vay tại các công ty tài chính thường rủi ro rất cao, có khả năng mất vốn lớn. Mức NIM có thể lên tới 20% đến 30%, để cứ mất vốn ở một khoản thì sẽ có 3 đến 5 khoản mới bù lại cho một khoản vay mất vốn trước đó.
Theo ông Hiếu, ngoài yếu tố biên lợi nhuận thì cũng còn nhiều yếu tố tác động tới lãi suất tại các công ty tài chính như yếu tố lãi suất, thanh khoản của công ty tài chính hay thị trường hay cũng vì bản thân giá vốn đầu vào của các công ty tài chính rất cao.
"Các công ty tài chính huy động vào có thể tới 15%. Vì các công ty này phải huy động vốn qua vay ngân hàng, phát hành trái phiếu, hoặc vay công ty mẹ chứ không được huy động vốn trực tiếp từ dân chúng", ông Hiếu nói.
Lãi suất cho vay tín chấp 35% là quá cao
Nhận định một con số lãi suất cho vay cụ thể khoảng 35%/năm, ông Hiếu cho rằng đây là mức lãi suất quá cao đang thịnh hành ở các công ty tài chính. Mức lãi suất lên tới 50% thì được coi là lãi suất "cắt cổ", xếp hạng cho vay nặng lãi không kém gì tín dụng đen.
Theo đó, ông Hiếu kiến nghị: Thiết nghĩ cần có biện pháp từ các cơ quan quản lý nhà nước như NHNN, Bộ Tài chính để kiềm chế lãi suất tín chấp đang thịnh hành tại các công ty tài chính hiện nay.
Cụ thể, nên có một khung lãi suất và quy định cụ thể về các loại lãi suất cắt cổ, cho vay nặng lãi tại các công ty tài chính.
Thứ 2, theo ông Hiếu, các cơ quan quản lý cần yêu cầu các công ty tài chính công bố lãi suất rõ ràng chính thức trên Website. Và bảng công bố này cần cung cấp đủ thông tin của cả 2 loại lãi suất là lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực. Tránh tình trạng các công ty này lập lờ, chỉ công bố ưu đãi lãi suất thời gian đầu mà không nên rõ mức lãi suất thực mà khách hàng phải "gánh".
Lãi suất thực này bao gồm lãi suất tính cho cả năm cộng các loại chi phí lệ phí mà người đi vay phải trả. "Chúng ta chưa bao giờ có những quy định rõ ràng như vậy. Không thể bắt người dân lần mò tính máy tính để biết một năm mình phải trả bao nhiêu cho ngân hàng với khoản vay như thế".
Ông Hiếu cũng đề xuất các công ty tài chính cần công bố lãi suất theo năm chứ không phải theo tháng như hiện nay, có thể gây hiểu nhầm cho khách hàng thì không tìm hiểu kỹ, chỉ thấy lãi suất 2, 3% là rất thấp.
Ông Hiếu kiến nghị, trong các hợp đồng của công ty tài chính với khách hàng cũng cần ghi rõ điều kiện cho vay, lãi phạt, ngày trả nợ, trả bằng cách nào, nếu khách hàng vi phạm thì xử lý bằng chế tài nào.
"Đây là những yêu cầu tối thiểu để tránh những tranh chấp không đáng có giữa khách hàng và công ty tài chính; tránh tình trạng các công ty tài chính giải thích hợp đồng theo ý của họ, hoặc dùng các hình thức xã hội đen để thu hồi nợ", ông Hiếu bổ sung.
Theo Danviet
Lãi suất cho vay đã giảm rất mạnh Vị tư lệnh ngành ngân hàng cho biết từ năm 2011- 2016, lãi suất huy động giảm 7-10%. Lãi suất cho vay giảm từ 10-11%, qua đó, góp phần ổn định mặt bằng lãi suất. Mặt bằng bình quân lãi suất trung dài hạn 9-10%. Chiều ngày 16/11, Quốc hội bắt đầu chất vấn đối với Thống đốc NHNN Lê Minh Hưng. Trả...