Chủ động nguồn nguyên liệu giúp dệt may, da giày tăng trưởng trong EVFTA
Chủ động nguồn nguyên liệu đầu vào sẽ gỡ nút thắt về quy tắc xuất xứ của sản phẩm dệt may Việt Nam, da giày khi thực thi EVFTA.
Sau khi Quốc hội biểu quyết và nếu được đưa vào thực thi, Hiệp định EVFTA sẽ là cú hích quan trọng cho xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU hơn 500 triệu dân. Trong lĩnh vực thương mại hàng hóa thuộc khuôn khổ EVFTA, gần như toàn bộ 100% biểu thuế đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang EU sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu sau một lộ trình ngắn (tối đa là 7 năm).
Trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào EU, mặt hàng dệt may trong vòng 5 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, EU xóa bỏ thuế quan với 77,3% kim ngạch xuất khẩu, 22,7% kim ngạch còn lại cũng sẽ được EU xóa bỏ thuế quan sau 7 năm.
Cam kết này của EU được đưa ra phù hợp với khả năng đáp ứng yêu cầu về quy tắc xuất xứ “2 công đoạn” (từ vải trở đi) của ngành dệt may Việt Nam (để được hưởng thuế quan ưu đãi theo Hiệp định EVFTA, hàng dệt may của Việt Nam phải được làm từ vải có xuất xứ từ Việt Nam). Ngoài ra, EU cũng chấp nhận linh hoạt với quy tắc này như cộng gộp xuất xứ từ Hàn Quốc để sản xuất một số hàng dệt may xuất khẩu sang EU.
Nhiều sản phẩm dệt may của Việt Nam đã chinh phục được thị trường châu Âu.
Chia sẻ những những cơ hội cũng như thách thức của ngành dệt may trước cánh cửa EVFTA, ông Trương Văn Cẩm, Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS) hy vọng, Hiệp định EVFTA sẽ đem lại cơ hội bứt phá cho các ngành, trong đó có dệt may, bởi hiện nay do ảnh hưởng của dịch Covid-19, dệt may Việt Nam đang ở vào thời điểm hết sức khó khăn.Đối với các sản phẩm giày dép, EU cam kết giảm thuế xuống 0% đối với 42,1% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Sau 3 năm và 7 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, tỷ lệ này sẽ lần lượt tăng lên tương ứng 73,2% và 100%.
“Tháng 5/2020, kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may giảm 36% so với tháng 5/2019. Trong 5 tháng đầu năm, dệt may chỉ xuất khẩu được 12,37 tỷ USD, giảm hơn 15,5% so với cùng kỳ trong đó tất cả các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đều giảm.. Chính vì vậy, công tác chuẩn bị của ngành cần rất chu đáo, tỉ mỉ để đón đầu các lợi ích ngay khi Hiệp định EVFTA được thông qua và có hiệu lực”, ông Cẩm chỉ rõ.
Video đang HOT
Cũng theo chia sẻ của Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam, đối với tiêu chuẩn chất lượng hàng của hàng dệt may Việt Nam để đáp ứng thị trường EU không đáng ngại, bởi từ nhiều năm nay các sản phẩm dệt may đã chinh phục được thị trường châu Âu. Tuy nhiên, khó khăn nhất đối với dệt may trong EVFTA lại và là vấn đề quy tắc xuất xứ của sản phẩm xuất khẩu.
Đồng quan điểm với Phó Chủ tịch VITAS, ông Thân Đức Việt, Tổng Giám đốc Tổng công ty CP May 10 cũng cho rằng, nút thắt lớn nhất của doanh nghiệp (DN) dệt may Việt Nam khi vào EVFTA là vấn đề quy tắc xuất xứ nguyên liệu đầu vào. Vì vậy, đại diện May 10 hy vọng thời gian tới sẽ có Hội thảo kết nối giữa DN “đầu vào” và “đầu ra” để gỡ dần nút thắt này, tìm lối ra cho vấn đề quy tắc xuất xứ của sản phẩm dệt may.
Là một trong những DN đang mong chờ Hiệp định EVFTA, bà Phan Thị Thanh Xuân, Phó Chủ tịch Hiệp hội Da giày, Túi xách Việt Nam (LEFASO) chia sẻ, các DN ngành da giày cũng đang rất trông đợi những lợi ích Hiệp định EVFTA mang lại, vì hiện nay hầu như các DN da giày đang “đói” đơn hàng.
“Khi EVFTA có hiệu lực sẽ giúp các DN vừa giải phóng lượng hàng còn tồn trước đó, vừa mở ra cơ hội với các đơn hàng mới, khôi phục lại thị trường sản xuất. Liên quan đến vấn đề thực thi Hiệp định, thời gian trước các DN trong ngành cũng được tập huấn nhưng các quy định đến nay có nhiều thay đổi. Vì thế Hiệp hội hi vọng các Bộ, ngành tiếp tục có hướng dẫn cụ thể cho các DN để khi bước vào thực tế để có thể tận dụng cơ hội một cách hiệu quả nhất”, bà Xuân chia sẻ.
Có một thực trạng chung hiện nay, việc phải phụ thuộc nguồn nguyên liệu nhập khẩu cũng là một điểm yếu đang “ngáng chân” các DN bước vào EVFTA. Theo đại diện một DN xuất khẩu thủ công mỹ nghệ tại TP HCM, kim ngạch xuất khẩu các ngành mũi nhọn như dệt may, da giày… hàng năm rất lớn, song giá trị xuất khẩu không cao bởi tỷ lệ nguyên phụ liệu nội địa đóng góp vào kim ngạch này rất khiêm tốn.
Chính điều này đã dẫn đến câu chuyện đáng buồn, khi thế giới có biến cố như dịch Covid-19 vừa qua, sự đứt gãy của các chuỗi cung ứng đã khiến cho các DN gần như ngưng trệ sản xuất, phải hủy hàng loạt các hợp đồng xuất khẩu, thiệt hại là không hề nhỏ. Bởi vậy, xu hướng tới đây cần phải đẩy mạnh sản xuất nội địa để không phải phụ thuộc nguồn nguyên phụ liệu, tránh những nguy cơ khi thị trường thế giới gặp những rủi ro…
Theo ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), việc thực thi EVFTA là một chiến lược dài hạn nhằm giúp DN Việt Nam tham gia sâu vào chuỗi giá trị khu vực, nâng cao năng lực sản xuất xuất khẩu và cạnh tranh. Hiện nay, đã có một số DN xuất khẩu Việt Nam trong lĩnh vực dệt may, da giày, đồ nội thất, thủy sản có quy mô lớn và kinh doanh có bài bản tại thị trường EU.
Tuy nhiên, ông Hải cũng cho hay, rất nhiều DN đang xuất khẩu vào EU là các DN vừa và nhỏ với nguồn lực hạn chế, quy trình sản xuất chưa đạt chuẩn EU, chưa có sự đầu tư thích đáng cho R&D, chưa khai thác hiệu quả tài sản sở hữu trí tuệ, thương hiệu… thiếu nhân lực có ngoại ngữ và kỹ năng đàm phán xúc tiến thương mại chuyên nghiệp, để thực hiện hoạt động xuất khẩu vào thị trường EU.
Vì vậy, trong thời gian tới, một trong những việc các DN Việt Nam cần làm ngay là đầu tư nâng cao giá trị, chất lượng sản phẩm hàng hóa nhằm củng cố tính cạnh tranh của sản phẩm tại thị trường EU. Các DN cần chú trọng vấn đề vệ sinh thực phẩm, đáp ứng các tiêu chuẩn và quy trình quản lý do EU quy định, coi trọng trách nhiệm xã hội, minh bạch hóa thông tin về lao động, môi trường sản xuất, đặc biệt đảm bảo quy tắc xuất xứ khi xuất khẩu vào EU./.
CEO Vinatex: Dệt may sẽ tiếp tục thiếu hàng dù Covid-19 được kiểm soát
Việc cần làm ngay tại thời điểm này là tập trung đàm phán với các nhà cung cấp để chuyển nguồn cung nguyên phụ liệu về Việt Nam như Uniqlo, H&M, Zara... đáp ứng được yêu cầu xuất xứ và hưởng lợi thuế quan từ Hiệp định EVFTA, ông Nguyễn Tiến Trường - Tổng Giám đốc Vinatex cho hay.
Trong thời gian tới đây, dịch bệnh có thể kết thúc nhưng hành vi tiêu dùng của thế giới sẽ có nhiều biến chuyển. Tập đoàn Dệt May Việt Nam (Vinatex) xác định, khả năng cầu thị trường quay về mức trước đại dịch là khó có thể xảy ra. Trước mắt, khi dịch bệnh được kiểm soát và nhu cầu về các sản phẩm y tế không còn, thì ngành dệt may sẽ tiếp tục rơi vào tình trạng thiếu đơn hàng.
"Dự kiến kim ngạch xuất khẩu cả năm 2020 có thể giảm tới 20% so với năm 2019. Vì vậy, việc cần làm ngay tại thời điểm này là tập trung đàm phán với các nhà cung cấp để chuyển nguồn cung nguyên phụ liệu về Việt Nam như Uniqlo, H&M, Zara... đáp ứng được yêu cầu xuất xứ và hưởng lợi thuế quan từ Hiệp định EVFTA; bắt đầu làm các đơn hàng thử nghiệm với quy mô nhỏ nhưng đòi hỏi yêu cầu cao hơn về chất lượng", ông Nguyễn Tiến Trường - Tổng Giám đốc Vinatex cho hay.
Tập đoàn chủ trương tiếp tục sản xuất các mặt hàng khẩu trang, quần áo bảo hộ y tế trong quý 2 để tận dụng nhu cầu tại các thị trường nước ngoài hiện đang được dự báo vẫn ở mức cao. Điều quan trọng nhất, đó là toàn bộ hệ thống Vinatex phải duy trì trạng thái sẵn sàng hoạt động bình thường với công suất cao ngay khi thị trường có dấu hiệu phục hồi.
Sau dịch, dệt may có thể phục hồi sớm chung với nhóm hàng thiết yếu
Tiếp tục nhận định về hành vi tiêu dùng của khách hàng sau dịch, Vinatex cho rằng hàng hoá dệt may chưa nằm ở mức thiết yếu cao như thực phẩm, thuốc men, các thiết bị bảo vệ con người... nhưng cũng thuộc nhóm các sản phẩm có nhu cầu thiết yếu. Chính vì vậy, sau khi đại dịch Covid-19 đi qua cũng sẽ là một trong các nhóm hàng hoá có thể phục hồi sớm.
Có thể nói, thời gian 5 tháng chống dịch và giãn cách xã hội vừa qua, thậm chí cách ly, chưa thể làm thay đổi các yếu tố văn hoá, tầng lớp xã hội, nhóm ảnh hưởng... Dựa trên mô hình của Kotler cho thấy 3 yếu tố chính sau có bị ảnh hưởng và sẽ có vai trò dẫn dắt quá trình phục hồi nhu cầu đó là: (1) Hoàn cảnh kinh tế, (2) Nhận thức và (3) Niềm tin và Thái độ.
Trong đó hoàn cảnh kinh tế sẽ có vai trò quan trọng nhất với nhóm khách hàng đang gặp khó khăn về việc làm, kể cả khi còn đang được nhận trợ cấp xã hội thì họ cũng không có khả năng đáp ứng các nhu cầu như khi có việc làm. Chính vì vậy, nhu cầu trang phục với họ là tối thiểu, hàng basic như quần áo denim, áo dệt kim, áo jacket 2-3 lớp thay cho suite, sơ mi, quần âu. Các mặt hàng cơ bản, giá rẻ sẽ phục hồi trước và chiếm tỷ lệ bán chính trong quý 3-4/2020. Khả năng phục hồi các mặt hàng cao cấp phụ thuộc vào tiến trình tạo việc làm mới tại EU và Mỹ, nếu phục hồi tốt có thể hy vọng sự phục hồi mặt hàng cấp trung trở lên vào lễ Giáng sinh 2020.
Chi tiêu xa xỉ giảm mạnh, tổng cầu thế giới sẽ không tăng trong 3-4 năm tới
Tiếp theo đó là ảnh hưởng của nhận thức. Qua thời gian cách ly, con người có dịp xem xét lại toàn bộ quá trình sống, chi tiêu, sử dụng các sản phẩm... và không ít người trong số đó sẽ phát hiện ra dường như mình tiêu dùng quá "lãng phí". Đây sẽ là nguyên nhân dẫn đến hiệu chỉnh nhu cầu sau dịch. Nếu điều này diễn ra trên diện rộng thì tổng cầu thế giới sẽ không tăng so với 2019 trong 3-4 năm tới vì nhận thức và hành động mang tính tiết kiệm của người tiêu dùng. Dự báo ảnh hưởng này sẽ dẫn tới nhu cầu 2020 giảm khoảng 20%, năm 2021 vẫn thấp hơn giao dịch của năm 2019 10% và đến năm 2022 cầu mới tương ứng mức giao dịch năm 2019.
Thứ 3 là niềm tin và thái độ của người tiêu dùng, cảm giác không an toàn sẽ còn đè nặng lên tâm lý tiêu dùng trong ít nhất 5 năm tới. Tỷ lệ tiết kiệm sẽ cao hơn so với trước kia sẽ là nguyên nhân chính dẫn dắt tổng cầu hàng hoá cơ bản như dệt may bước vào giai đoạn trầm lắng, không tăng trưởng. Về thái độ tiêu dùng cũng sẽ hướng tới gần hơn các sản phẩm bảo vệ môi trường, nhất là sau khi giãn cách xã hội, người ta thấy rõ sự cải thiện về chất lượng không khí và sự lành lại của lỗ thủng tầng ozone. Xu thế thay thế rất nhanh các sản phẩm không tái chế được, sản xuất bằng công nghệ không sạch trong thời gian khoảng 5 năm tới.
Ngoài các yếu tố trong hành vi tiêu dùng thì yếu tố sắp xếp lại chuỗi cung ứng với khả năng các quốc gia phát triển kéo ngành dệt may về trong nước, vừa đảm bảo tỷ lệ an toàn không đứt gãy chuỗi như vừa qua, vừa tạo việc làm trong nước sẽ có thể là một xu thế mới.
Tóm lại, nhu cầu sẽ có phục hồi từ quý 3/2020, bắt đầu bằng việc phục hồi các sản phẩm cơ bản, giá trung bình thấp và thấp. Các doanh nghiệp có vị trí tốt hơn trong chuỗi cung ứng sẽ có đơn hàng trước. Tuy vậy, khả năng tổng cầu thế giới 2020 của dệt may vẫn giảm 20 - 25%. Các năm tiếp theo, tiến trình hồi phục sẽ gắn liền với tỷ lệ có việc làm ở Mỹ và EU. Xu thế sản phẩm xanh, tỷ lệ tiêu dùng ít đi sau khi xem xét lại hành vi mua sắm của người tiêu dùng sẽ là chủ đạo, dẫn hướng thị trường dệt may thế giới.
Xuất khẩu dệt may 4 tháng giảm gần 7% so với cùng kỳ Kết quả, kim ngạch xuất khẩu dệt may 4 tháng đầu năm 2020 giảm 6,6% về mức 10,64 tỷ USD. Thậm chí, mức giảm này chưa phản ánh hết thực tế thiếu đơn hàng xuất khẩu của ngành, ông Cẩm nhấn mạnh. Con số cụ thể phải chờ đến tháng 5 và tháng 6, khi lượng đơn hàng bị hủy, hoãn đều nằm...