Chống thất thu thuế đối với thương mại điện tử
Chống thất thu thuế đối với thương mại điện tử là nội dung chính của hội thảo công bố kết quả nghiên cứu “Trốn và tránh thuế của thuế thu nhập doanh nghiệp FDI tại Việt Nam” do Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) thuộc Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức ngày 28/4.
Thuế được coi là nguồn thu quan trọng, chủ yếu của ngân sách vì nguồn thu này mang tính chất ổn định, đảm bảo tự chủ và độc lập quốc gia. Tuy nhiên, tình trạng trốn và tránh thuế của các doanh nghiệp ở Việt Nam ngày càng diễn biến phức tạp, phạm vi ngày càng rộng, quy mô ngày càng lớn và thủ đoạn ngày càng tinh vi; trong đó, bao gồm các hoạt động kinh doanh thương mại điện tử.
Theo PGS. TS. Phạm Thế Anh, Trưởng nhóm nghiên cứu, Trưởng Bộ môn Kinh tế vĩ mô (Khoa Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân), trong nền kinh tế số, sự tồn tại cùng một lúc các mô hình kinh doanh khác nhau như truyền thống, bán truyền thống và phi truyền thống đang tạo ra một cuộc cạnh tranh bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài ngay tại thị trường Việt Nam. Điều này dẫn tới thách thức đối với các chính sách quản lý doanh nghiệp trong lĩnh vực kinh doanh thương mại điện tử tại Việt Nam trong cuộc chiến chống thất thu thuế.
Nghiên cứu đã đưa ra ví dụ đối với Facebook và Google là hai gã khổng lồ trong lĩnh vực internet đến từ Mỹ đã và đang thực hiện hoạt động kinh doanh quảng cáo tại Việt Nam nhưng không thực hiện nghĩa vụ thuế ở Việt Nam.
Theo số liệu dự đoán từ Công ty nghiên cứu thị trường ANTS, chỉ riêng Facebook và Google đã chiếm tới hơn 66% thị phần quảng cáo trực tuyến tại Việt Nam. Hoạt động kinh doanh không thông qua một đối tác quảng cáo ở Việt Nam và tự thu tiền về tài khoản của mình như vậy là bất hợp pháp. Hậu quả là không kiểm soát được nội dung quảng cáo, “chảy m áu” doanh thu quảng cáo ra nước ngoài, thất thu nguồn thuế cho nhà nước và làm thiệt hại thị phần của các doanh nghiệp nội dung số trong nước.
Hay như liên quan tới việc kiểm soát hoạt động đăng ký kinh doanh để quản lý thuế đối với loại hình kinh doanh này, Bộ Công Thương đã ra Thông tư số 47/2014/TT-BCT ngày 05/12/2014 về quản lý website thương mại điện tử quy định trách nhiệm đăng ký kinh doanh là của doanh nghiệp. Tuy nhiên, thông tư này lại không quy định rõ trách nhiệm kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vì thế, nhiều doanh nghiệp “né” trách nhiệm đăng ký mà vẫn không bị xử lý. Ngành thuế thất thu vì không có nguồn dữ liệu doanh nghiệp điện tử để tính thuế.
Để giải quyết vấn đề này, Luật Quản lý thuế (sửa đổi) năm 2019 chính thức có hiệu lực kể từ ngày 1/7/2020, đã quy định về quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử. Cụ thể, khoản 4, Điều 42 nêu rõ: Đối với hoạt động thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên nền tảng số và các dịch vụ khác được thực hiện bởi nhà cung cấp ở nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam thì nhà cung cấp ở nước ngoài có nghĩa vụ trực tiếp hoặc ủy quyền thực hiện đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế tại Việt Nam theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
Mặc dù, Luật Quản lý thuế (sửa đổi) năm 2019 hiện chưa chính thức có hiệu lực nhưng các chuyên gia về thuế và luật trong nước đánh giá, quy định quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử là một trong những nội dung quan trọng trong công tác quản lý thuế. Từ đó, đáp ứng yêu cầu quản lý thuế hiện đại, góp phần chống thất thu thuế trong bối cảnh nền kinh tế số phát triển. Xu thế toàn cầu hóa và hiện đại hóa đang tạo cơ hội cho các doanh nghiệp mở rộng và hội nhập nhanh hơn vào thị trường khu vực và quốc tế, nhất là trong nền tảng số.
TS. Nguyễn Hoàng Oanh, Giảng viên kinh tế vĩ mô và kinh tế học thuế khóa, Đại học Kinh tế Quốc dân cho rằng, từ quy định của luật, thời gian tới Chính phủ sớm ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể về nội dung quản lý đối với hoạt động thương mại điện tử nhằm hướng tới môi trường kinh doanh bình đẳng và chống thất thu cho ngân sách nhà nước.
Diệp Anh
Những xu thế và cơ hội đầu tư - kinh doanh cần nắm bắt ngay sau đại dịch Covid-19
Theo TS. Cấn Văn Lực, có ít nhất 6 xu thế chính và 4 nhóm cơ hội đầu tư - kinh doanh quan trọng trong thời gian tới cần đặc biệt lưu ý.
Video đang HOT
Việt Nam đã có được những thành công ban đầu trong phòng chống đại dịch Covid-19 và đang lên kế hoạch nới lỏng cách ly xã hội, khôi phục lại các hoạt động kinh tế - xã hội. Bối cảnh dịch bệnh hiện nay và sau đại dịch Covid-19 đã và đang tạo ra nhiều thách thức, nhưng cũng có nhiều xu thế và cơ hội đầu tư - kinh doanh mới trên toàn cầu cũng như tại Việt Nam.
Về xu thế đầu tư - kinh doanh sau đại dịch, có thể nhận thấy 6 xu thế chính.
Một là , xu thế đầu tư vào những tài sản an toàn hơn: bối cảnh dịch bệnh làm tăng rủi ro, bất định; và vẫn còn tiềm ẩn rủi ro ít nhất là hết năm 2020 do một số quốc gia chưa xác định rõ đỉnh dịch, diễn biến dịch bệnh còn rất phức tạp; khiến chỉ số đo lường rủi ro thị trường (VIX) tại thị trường chứng khoán phái sinh tại Chicago (Mỹ) tăng 177% từ đầu năm đến nay. Theo đó, nhà đầu tư thực hiện chiến lược đa dạng hóa, quan tâm nhiều hơn đến vàng (giá vàng thế giới tăng khoảng 12% tính từ đầu năm 2020), mua trái phiếu Chính phủ Mỹ, khiến giá trái phiếu này tăng lên, đồng nghĩa với lợi tức trái phiếu giảm mạnh (-87% đối với loại trái phiếu thời hạn 2 năm và 67% đối với trái phiếu thời hạn 10 năm)...v.v.
Hai là , xu thế mua-bán, sáp nhập (M & A) tăng với lý do chính là đại dịch Covid-19 khiến nhiều công ty phá sản hoặc chứng kiến giá cổ phiếu giảm sâu, trong khi một số công ty tích trữ tiền mặt, hoạt động vẫn tốt và sẵn sàng mua lại các công ty khác. Một số lĩnh vực chứng kiến xu thế M & A mạnh bao gồm ngành công nghiệp ô tô, bán lẻ, hàng không (hãng Virgin Australia vừa tuyên bố phá sản tự nguyện ngày 21/4/2020 và đang chờ giải cứu hoặc mua lại)...v.v. Theo khảo sát của E&Y trước dịch COVID-19, tỷ lệ các công ty dự kiến tích cực tham gia M&A trong năm 2020 là 59% so với con số hiện tại là 54%, cho thấy phần lớn công ty sẽ không thay đổi kế hoạch hoạt động M&A của mình và sẽ tiếp tục sôi động trong thời gian tới.
Ba là, xu thế cắt giảm chi phí và nhân sự: số liệu của Bloomberg cho thấy các công ty đã và đang thực hiện cắt giảm chi phí và nhân sự một cách quyết liệt. Tại Canada, khoảng 1 triệu người mất việc. Tại Mỹ, trong vòng 5 tuần qua kể từ khi dịch Covid-19 bùng phát đã có đến 26 triệu người lao động xin trợ cấp thất nghiệp, trong số này một phần đáng kể là bị mất việc làm; khiến tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ có thể lên đến 11% trong tháng 5/2020 (cao hơn mức 9,5% trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009, theo CitiResearch). Số liệu cũng cho thấy những ngành như hàng không, bán lẻ, sản xuất công nghiệp, du lịch, nhà hàng... đã cho nhiều nhân viên nghỉ việc tạm thời hoặc vĩnh viễn. Trong khi đó, các công ty cung cấp hàng hóa thiết yếu, thực phẩm (như Walmart, Domino Pizza, thương mại trực tuyến...) lại đang tuyển dụng một lượng nhân sự lớn do nhu cầu (nhất là thương mại điện tử) tăng cao. Xu thế cắt giảm nhân sự được kỳ vọng là sẽ giảm dần sau dịch bệnh, khi các nhà máy, doanh nghiệp trở lại làm việc, nhưng chắc chắn sẽ còn tiếp diễn trong năm 2020-21.
Bốn là, xu thế kinh doanh số: đại dịch Covid-19 đã khiến các tổ chức, doanh nghiệp nhìn nhận lại về cách thức vận hành (như họp trực tuyến, làm việc tại nhà, khám chữa bệnh từ xa, đào tạo trực tuyến...). Thời gian qua, nhiều tổ chức, doanh nghiệp đã nhận ra được tầm quan trọng của chuyển đổi số, nhưng lại chưa có động lực để thực hiện một cách mạnh mẽ. Dịch Covid-19 chính là động lực thúc đẩy xu thế này và những tổ chức, doanh nghiệp nắm bắt, chủ động trong xu thế này sẽ có nhiều lợi thế hơn so với đối thủ. Thí dụ, những tổ chức, doanh nghiệp có nền tảng CNTT phù hợp để nhân viên có thể làm việc tại nhà, họp trực tuyến một cách hiệu quả sẽ có nhiều điều kiện để vượt qua khó khăn mà dịch Covid-19 gây ra dễ dàng hơn.
Năm là, xu thế thay đổi chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị: kết quả khảo sát của Viện Quản lý chuỗi cung ứng (Mỹ) cho thấy có tới 75% số công ty tham gia khảo sát cho biết chuỗi cung ứng của họ bị gián đoạn, 57% cho rằng thời gian để nhận hàng từ đơn vị cung ứng cấp 1 tại Trung Quốc tăng lên, bởi các nhà sản xuất tại Trung Quốc chỉ đạt 50% công suất với 56% lượng nhân công so với bình thường, và có tới 44% thừa nhận họ không có kế hoạch dự phòng cho trường hợp chuỗi cung ứng bị gián đoạn từ Trung Quốc. Theo đó, một số doanh nghiệp đã tìm giải pháp như tìm kiếm nguồn nguyên vật liệu thay thế (trong hoặc ngoài nước) dù không bù đắp được ngay và nhiều, tập trung vào thị trường nội địa cùng với việc xúc tiến thương mại điện tử. Xu thế này cũng là chất xúc tác để các công ty đa quốc gia quyết định dịch chuyển đầu tư, cơ sở sản xuất của mình từ Trung Quốc sang các nước khu vực, trong đó có Việt Nam.
Sáu là, xu thế quan tâm nhiều hơn đến phòng chống dịch bệnh, bảo vệ môi trường. Bài học nhãn tiền từ dịch Covid-19 cho thấy chính phủ, doanh nghiệp và người dân ngày càng quan tâm hơn đến chăm lo sức khỏe, phòng chống dịch bệnh và bảo vệ môi trường. Đây là điều đáng mừng và quốc gia nào sớm coi đây là quốc sách sẽ có được sức đề kháng tốt hơn, nhiều khả năng phát triển bền vững và hài hòa hơn. Nhiều nước đã bỏ ra hàng trăm triệu USD đầu tư phát triển y tế dự phòng, nghiên cứu và sản xuất vaccine, trang thiết bị y tế cùng với các chương trình bảo vệ môi trường trung - dài hạn. Cùng với đó, các doanh nghiệp cũng tăng cường hoặc chuyển hướng đầu tư vào sản xuất trang thiết bị y tế, dịch vụ y tế, chăm lo sức khỏe và dược phẩm...v.v.
Cơ hội đầu tư - kinh doanh sau dịch
Từ những xu thế trên, có thể nhận diện thấy ít nhất có 4 nhóm cơ hội đầu tư - kinh doanh quan trọng trong thời gian tới.
Một là, cơ hội đầu tư - kinh doanh số: với mục tiêu duy trì hoạt động sản xuất - kinh doanh vươt qua khó khăn dịch bệnh cùng với xu thế CMCN 4.0 hiện nay; nhiều tổ chức, doanh nghiệp đã và đang tổ chức hoạt động, kinh doanh trên nền tảng tự động hóa, phát triển tài chính số, ngân hàng số, Fintech, thương mại điện tử, đào tạo trực tuyến, thanh toán điện tử (gồm cả mobile money), giải trí số, làm việc từ xa (tại nhà), khám chữa bệnh từ xa, định vị hành trình cá nhân...v.v. Theo đó, các dịch vụ hỗ trợ sẽ có nhiều cơ hội phát triển nhanh như kho vận (logistics), giao hàng nhanh (fast shipping), đóng gói, cung ứng nền tảng (platforms), livestream sự kiện, an ninh mạng, phân tích dữ liệu, tư vấn phát triển kinh doanh số...v.v.
Hai là, cơ hội từ xu thế tăng đầu tư công, nhất là đầu tư giải quyết an sinh xã hội, cơ sở hạ tầng, năng lượng tái tạo, hạ tầng ICT, dịch vụ y tế, giáo dục, ứng phó biến đổi khí hậu...v.v. Những khoản đầu tư này đang được các nước quan tâm thực hiện vì chúng vừa có tác động tích cực ngắn hạn (thúc đẩy tăng trưởng) cũng như tạo tiền đề phát triển lâu dài. Những bên có liên quan đến mảng đầu tư này như nhà tài trợ, doanh nghiệp tham gia (cả Nhà nước, tư nhân và FDI), định chế tài chính, tổ chức tư vấn, địa phương...v.v. đều là những người hưởng lợi từ xu thế này.
Ba là, cơ hội đầu tư - kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất trang thiết bị y tế, dịch vụ y tế, chăm lo sức khỏe, dược phẩm, sản phẩm xanh, sản phẩm thân thiện môi trườngđã và đang mở rộng hơn. Cơ hội này đã có được trong những năm gần đây và dịch bệnh lại càng thúc đẩy nhu cầu thiết yếu này.
Bốn là, xu thế dịch chuyển dòng vốn đầu tư đã và đang diễn ra nhờ tác động kép: (i) chiến tranh thương mại Mỹ - Trung vốn dĩ đã thúc đẩy tiến trình này, nay với tâm lý e ngại rủi ro dịch bệnh (làm gián đoạn chuỗi cung ứng cả phía cung và phía cầu) có thể khiến việc này diễn tiến nhanh hơn, quyết liệt hơn. Việt Nam nói chung, các địa phương và doanh nghiệp Việt nói riêng cần chuẩn bị tâm thế tốt hơn để lường đón và tận dụng cơ hội này.
Những mô hình kinh doanh, đầu tư mới này đòi hỏi ít nhất là 8 điều kiện đối với Chính phủ, tổ chức và doanh nghiệp ở mỗi quốc gia, bao gồm: (i) hành lang pháp lý chi phối hoạt động của những mô hình này; (ii) cơ sở hạ tầng, nhất là hạ tầng ICT, hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về cá nhân, tổ chức có liên quan, nhất là cơ sở dữ liệu định danh cá nhân quốc gia; (iii) nguồn nhân lực có kiến thức, kỹ năng và thái độ làm việc rất khác so với trước đây; (iv) hệ sinh thái để cùng nhau làm việc, hợp tác, chia sẻ (kể cả thông tin, dữ liệu); (v) quản lý rủi ro, nhất là rủi ro an ninh mạng, rủi ro hoạt động (bao gồm cả kế hoạch dự phòng nhằm đảm bảo hoạt động liên tục - BCP); (vi) cơ chế, qui trình làm việc cần thay đổi để bắt kịp yêu cầu mới này; (vii) hợp tác quốc tế để cùng giải quyết các vấn đề xuyên biên giới như an ninh mạng, phòng chống rừa tiền, tội phạm, giao dịch thanh toán - chuyển tiền, hài hòa hóa khuôn khổ pháp lý, đào tạo phát triển nguồn nhân lực...v.v; và (viii) Chính phủ tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư - kinh doanh để vừa hỗ trợ người dân, doanh nghiệp bị ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch Covid-19, vừa tạo điều kiện tận dụng cơ hội đầu tư - kinh doanh nêu trên.
Lời kết: Trong bối cảnh kinh tế - xã hội khó khăn vì dịch Covid-19, suy thoái kinh tế toàn cầu và giảm mạnh đà tăng trưởng của Việt Nam là khó tránh khỏi; việc chủ động triển khai, tranh thủ những cơ hội đầu tư - kinh doanh mới này sẽ giúp mỗi quốc gia, tổ chức và doanh nghiệp có phần bù đắp thiếu hụt động lực tăng trưởng, phù hợp xu thế CMCN 4.0, tăng năng suất lao động, giảm thiểu rủi ro dịch bệnh (do hạn chế tiếp xúc không cần thiết), giảm thiểu rủi ro môi trường (do quan tâm hơn đến phát triển các mô hình kinh doanh "sạch" hơn và chủ động ứng phó biến đổi khí đậu tốt hơn). Rõ ràng là không có lý do gì để chúng ta không tận dụng cả!
TS. Cấn Văn Lực
Covid-19 tác động chuỗi cung ứng dịch vụ và thương mại điện tử Dịch Covid-19 tác động mạnh tới chuỗi cung ứng Việt Nam, chuỗi cung ứng toàn cầu, thúc đẩy thương mại điện tử, công cuộc số hóa toàn nền kinh tế. Chưa bao giờ chuyển đổi số lại được nhắc tới và biến thành hành động thực tiễn nhiều như thời điểm này. Không chỉ giới doanh nhân, doanh nghiệp mà trong từng ngôi...