Cho con bú có giúp giảm nguy cơ ung thư vú?
Có rất nhiều yếu tố nguy cơ gây ung thư vú. Ngoài những yếu tố không thể kiểm soát được thì có những biện pháp giảm nguy cơ mắc bệnh như cho con bú sữa mẹ.
1. Những nguy cơ dẫn đến ung thư vú
Vú là bộ phận rất quan trọng đối với người phụ nữ, vừa mang tính thẩm mỹ vừa là nơi đảm nhiệm vai trò tiết sữa nuôi dưỡng em bé khi người phụ nữ sinh con.
Tuy nhiên, hiện nay ngày càng có nhiều phụ nữ phát hiện mắc ung thư vú, một căn bệnh ác tính hàng đầu về tỷ lệ mắc và tỷ lệ tử vong ở phụ nữ trên thế giới.
Ung thư vú là tình trạng bệnh lý do tế bào tuyến vú phát triển không kiểm soát được, tạo ra các khối u ác tính, có khả năng xâm lấn xung quanh và di căn xa. Ung thư vú có thể bắt đầu từ các bộ phận khác nhau của vú như các tuyến thùy tạo ra sữa mẹ, ống dẫn sữa, núm vú, mô liên kết, các mạch máu và mạch bạch huyết…
Nó có thể lây lan khi các tế bào ung thư xâm nhập vào máu hoặc hệ thống bạch huyết và sau đó đến các bộ phận khác của cơ thể.
Có nhiều yếu tố nguy cơ dẫn đến ung thư vú.
Các yếu tố nguy cơ mắc ung thư vú bao gồm: một số yếu tố di truyền, tuổi cao, hút thuốc lá, uống rượu, thừa cân, béo phì, ít vận động, tiếp xúc với các chất sinh ung thư trong môi trường…
Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, các yếu tố nguy cơ liên quan đến lối sống như chế độ ăn uống, sinh hoạt vận động có thể làm tăng khả năng phát triển ung thư vú. Tuy nhiên vẫn chưa biết chính xác cách một số yếu tố nguy cơ này khiến các tế bào bình thường trở thành ung thư.
Các hormone có thể cũng đóng một vai trò trong nhiều trường hợp ung thư vú nhưng điều này xảy ra như thế nào thì vẫn chưa được hiểu đầy đủ.
2. Cho con bú có giúp giảm nguy cơ ung thư vú không?
Nuôi con bằng sữa mẹ chắc chắn mang lại cho em bé một khởi đầu khỏe mạnh. Nhưng đó không phải là lợi ích sức khỏe duy nhất mà biện pháp này còn có thể làm giảm nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ.
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề này. Theo tài liệu của Thư viện Y khoa Quốc gia Hoa Kỳ, trong một phân tích tổng hợp quy mô lớn gồm 47 nghiên cứu từ 30 quốc gia đã xem xét tác động của việc nuôi con bằng sữa mẹ đối với nguy cơ ung thư vú cho thấy, nguy cơ tương đối mắc bệnh ung thư vú giảm 4,3% trong mỗi 12 tháng cho con bú, cộng với mức giảm 7,0% nguy cơ được quan sát thấy ở mỗi lần sinh.
Tỷ lệ giảm nguy cơ ung thư vú liên quan đến việc cho con bú là như nhau ở các nước có thu nhập cao và thấp và không thay đổi theo độ tuổi, tình trạng mãn kinh, nhóm dân tộc hoặc độ tuổi sinh con đầu lòng. Điều đó cho thấy rằng việc cho con bú sữa mẹ trên toàn cầu làm giảm nguy cơ ung thư vú.
Rủi ro ung thư vú giảm đi có thể là do buồng trứng không sản xuất trứng thường xuyên trong thời gian cho con bú. Hoặc có thể là do việc cho con bú làm thay đổi các tế bào ở vú nên chúng có thể có khả năng chống lại những thay đổi dẫn đến ung thư tốt hơn.
Hầu hết phụ nữ cho con bú đều trải qua những thay đổi nội tiết tố trong thời kỳ cho con bú khiến chu kỳ kinh nguyệt của họ bị trì hoãn. Điều này làm giảm khả năng tiếp xúc với các hormone như estrogen, loại hormone có thể thúc đẩy sự phát triển của tế bào ung thư vú.
Video đang HOT
Ngoài ra, trong quá trình mang thai và cho con bú, mô vú cũng bị bong ra. Sự bong tróc này có thể giúp loại bỏ các tế bào có khả năng gây tổn hại DNA, do đó giúp giảm nguy cơ phát triển ung thư vú.
Cho con bú giúp giảm nguy cơ ung thư vú.
3. Chủ động phòng ngừa và phát hiện sớm ung thư vú
Theo BSCKI. Hoàng Trọng Điểm, chuyên khoa Ung bướu, mặc dù không có cách chắc chắn để ngăn ngừa ung thư vú nhưng có một số biện pháp chị em có thể làm để giảm nguy cơ mắc bệnh, đó là: Duy trì cân nặng hợp lý; thường xuyên hoạt động thể chất; ăn uống đủ dinh dưỡng, ưu tiên thực phẩm lành mạnh; thận trọng khi lựa chọn liệu pháp hormone điều trị các triệu chứng mãn kinh…
Nghiên cứu cũng cho thấy, cho con bú sữa mẹ giúp giảm nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ trước và sau mãn kinh. Nguy cơ ung thư vú giảm khi thời gian cho con bú tăng lên.
Dù là bệnh lý ác tính phổ biến nhưng hiện nay, nhờ những tiến bộ trong sàng lọc, chẩn đoán và điều trị có thể gia tăng tỷ lệ điều trị khỏi và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người bệnh ung thư vú. Do đó, ngoài việc chủ động thực hiện các biện pháp giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh, tất cả phụ nữ trong độ tuổi sinh sản nên tự khám vú và tầm soát ung thư vú định kỳ.
Đặc biệt, với những phụ nữ có nguy cơ cao nên siêu âm tuyến vú, chụp Xquang tuyến vú và chụp cộng hưởng từ tuyến vú 1 năm/lần.
Khi phát hiện thấy các dấu hiệu bất thường như: đau vú; có thay đổi ở da vú và núm vú; chảy dịch hoặc chảy máu ở đầu vú; sờ thấy khối bất thường ở vú hoặc ở nách… chị em nên đến cơ sở y tế chuyên khoa để khám chẩn đoán chính xác và điều trị kịp thời.
Cách đơn giản phòng bệnh ung thư vú
Ung thư vú là một trong những dạng ung thư phổ biến nhất trên toàn cầu và là nguyên nhân gây tử vong đứng thứ hai ở phụ nữ.
Theo Báo cáo ghi nhận ung thư toàn cầu Globocan 2020, tại Việt Nam, trong số ung thư ở nữ, số người mới mắc ung thư vú đứng hàng thứ nhất, với 21.555 người...
Mặc dù ung thư vú là một tình trạng có thể được kiểm soát và phát hiện tốt bằng chẩn đoán sớm, nhưng điều gây ra sự gia tăng đáng tiếc, ngoài nguy cơ di truyền, là môi trường thay đổi và lối sống ngày càng thay đổi. Mang thai muộn, béo phì, ô nhiễm, chế độ ăn uống không đúng cách và thay đổi nội tiết tố là một số lý do đằng sau sự gia tăng số ca mắc bệnh.
TS.BSCKII Nguyễn Văn Hùng - Trưởng khoa Khám bệnh theo yêu cầu, Bệnh viện K Trung ương cơ sở Tân Triều.
Giống như các dạng ung thư khác, mặc dù ung thư vú có thể tấn công bất cứ lúc nào, nhưng cũng có một số yếu tố nguy cơ và thay đổi lối sống có thể khiến một người có nguy cơ cao hơn và do đó, phải được ngăn chặn từ gốc để có cuộc sống lành mạnh hơn.
1. Các yếu tố có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ
Dưới đây là một số yếu tố và nguyên nhân làm tăng nguy cơ mắc ung thư vú mà phụ nữ nên biết để cố gắng ngăn ngừa, phòng tránh:
1.1 Tăng cân
Béo phì là một trong những vấn đề sức khỏe lớn nhất ảnh hưởng đến mọi người trên toàn cầu. Mặc dù việc tăng cân gây ra các vấn đề về vòng eo, cholesterol và làm tăng nguy cơ mắc các bệnh về mạch máu nhưng người ta cũng thấy rằng béo phì là một trong những yếu tố có thể làm tăng nguy cơ phát triển ung thư vú. Ung thư vú cũng là một tình trạng trở nên trầm trọng hơn khi phụ nữ thừa cân sau mãn kinh.
Khi lượng tế bào mỡ trong cơ thể được phân bố cao hơn, phụ nữ càng tạo ra nhiều estrogen, điều này có thể khiến một số tế bào ung thư phát triển và gây rắc rối. Béo phì cũng có liên quan đến mức insulin cao hơn, điều này cũng có thể gây ra bệnh đái tháo đường và các rối loạn nội tiết tố khác. Vì vậy, dù phụ nữ ở độ tuổi nào, điều quan trọng là duy trì cân nặng và ngăn ngừa tăng cân. Điều chỉnh chế độ ăn uống, tập thể dục và vận động để chống lại mỡ thừa. Hãy nhớ rằng, càng giảm cân thì nguy cơ phát triển ung thư vú càng ít, đặc biệt là sau 45 tuổi.
1.2 Chế độ ăn uống không hợp lý
Chế độ ăn uống lành mạnh giúp ngăn ngừa ung thư vú.
Chế độ ăn uống cũng là một yếu tố quan trọng để kiểm tra nguy cơ ung thư. Chế độ ăn nhiều chất béo không chỉ góp phần làm tăng nguy cơ béo phì mà còn là yếu tố nguy cơ lớn gây nguy cơ ung thư vú. Lựa chọn chế độ ăn uống không hợp lý hoặc kém có thể dẫn đến sự phát triển của các tế bào mỡ trong cơ thể, từ đó làm tăng nồng độ estrogen. Vì vậy, cần hạn chế hoặc giảm thiểu việc ăn đồ ăn vặt, thực phẩm chế biến sẵn, rượu, thịt, đường bổ sung và carbs tinh chế.
1.3 Uống rượu
Phải hạn chế uống rượu và thuốc lá. Các nghiên cứu đã nhấn mạnh rằng nguy cơ ung thư vú tăng lên khi tiêu thụ rượu nhiều hơn. Theo ước tính, những phụ nữ có xu hướng uống nhiều hơn 1 ly rượu mỗi ngày có nguy cơ mắc bệnh ung thư cao hơn 7-10% so với những phụ nữ không uống rượu và nguy cơ phần trăm còn tăng cao hơn khi thường xuyên uống nhiều đồ uống hơn.
Mặc dù đối với những người mới bắt đầu, điều quan trọng là không để thói quen uống rượu trở thành thói quen mạn tính, phụ nữ uống rượu thường xuyên trước tiên nên cố gắng cắt giảm lượng tiêu thụ và không uống quá một ly mỗi ngày. Để có thói quen phòng ngừa, hãy chú ý và lưu ý về lượng rượu uống vào mỗi lần uống.
1.4 Lịch sử quá trình sinh sản
Mặc dù có con hoặc mang thai ở mọi lứa tuổi là lựa chọn cá nhân của phụ nữ nhưng theo các chuyên gia mang thai muộn cũng như tỷ lệ phụ nữ có xu hướng không sinh con cao hơn sẽ có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn.
Với việc mang thai muộn hơn hoặc không mang thai, mô vú sẽ tiếp xúc với lượng estrogen cao hơn theo thời gian, điều này chắc chắn có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh, đặc biệt nếu còn có các yếu tố nguy cơ khác. Ngược lại, nguy cơ ung thư vú có thể giảm ở những phụ nữ có xu hướng mang thai trước hoặc ở độ tuổi 30 và những phụ nữ sinh nhiều con hơn.
Điều cũng có thể ảnh hưởng đến nguy cơ ung thư vú là việc chọn không cho con bú. Theo nhiều nghiên cứu, việc giảm nguy cơ ung thư vú là một trong những "lợi ích" của việc trẻ bú mẹ trong thời gian lên tới một năm.
Vì vậy, phải xác định nguy cơ mắc úng thư vú của một người và tiến hành sàng lọc trước và thảo luận với các bác sĩ chuyên môn về lịch sử sinh sản.
1.5 Kinh nguyệt sớm và mãn kinh muộn
Tương tự như lịch sử sinh sản, các chuyên gia cũng cho rằng những phụ nữ có kinh sớm (bắt đầu có kinh trước 12 tuổi) hoặc mãn kinh muộn hơn nhiều cũng có yếu tố tiếp xúc với estrogen cao hơn, có thể ảnh hưởng đến các mô vú. Những phụ nữ phải đối mặt với những rủi ro như vậy nên đi kiểm tra sức khỏe thường xuyên hơn và được thông báo về nguy cơ ung thư vú.
1.6 Mật độ mô vú dày
Những người có bộ ngực dày đặc thường có nhiều mô sợi hơn và ít mỡ tích tụ ở ngực hơn, điều này cũng có thể làm tăng nguy cơ phát triển ung thư vú. Các bác sĩ cũng nói rằng bộ ngực dày đặc có thể gây khó khăn cho việc phát hiện hoặc hình dung các tế bào ung thư ở vú khi chụp X-quang tuyến vú hoặc có thể yêu cầu các hình thức kỹ thuật hình ảnh khác.
Ngoài ra, một số loại bất thường về tế bào hoặc tình trạng vú không phải ung thư (các vấn đề lành tính) cũng có thể làm tăng nguy cơ phát triển ung thư vú và đây là một dạng yếu tố rủi ro.
1.7 Sử dụng một số hình thức ngừa thai
Sự thay đổi và gián đoạn nội tiết tố là nguyên nhân thường liên quan đến một số dạng ung thư, bao gồm cả ung thư vú. Sử dụng biện pháp tránh thai, đặc biệt là các loại có thể bao gồm sử dụng nội tiết tố cao hơn (chẳng hạn như thuốc tránh thai, cấy ghép, vòng tránh thai...) có thể làm tăng nguy cơ hoặc khả năng chẩn đoán ung thư vú. Các nghiên cứu cũng đề cập rằng những phụ nữ chọn điều trị nội tiết tố sau mãn kinh cũng có nguy cơ cao hơn mức chung.
2. Phòng ngừa ung thư vú ở phụ nữ
Chụp Xquang tuyến vú tại Bệnh viện K Trung ương.
Để phòng tránh nguy cơ mắc bệnh ung thư vú hiệu quả, cần có chế độ ăn uống, sinh hoạt khoa học, khám vú thường xuyên và chủ động tầm soát sớm bệnh. Chị em nên thực hiện các biện pháp sau:
Ăn nhiều rau củ quả: Những loại rau họ cải như bắp cải, bông cải xanh, cải xoăn... có khả năng giảm 20 - 40% tỷ lệ mắc ung thư vú vì trong các loại rau họ cải rất giàu glucosinolate. Hoạt chất này có khả năng ức chế sự gia tăng tế bào và ngăn ngừa sự hình thành khối u ở vú.
Giảm một số chất béo: Những thực phẩm chứa nhiều chất béo như bánh ngọt, bánh pizza, xúc xích... chứa nhiều chất béo không tốt cho sức khỏe, làm tăng nguy cơ ung thư vú. Vì thế để phòng ngừa bệnh này, chị em cần tránh các thực phẩm giàu chất béo.
Hạn chế đồ uống có cồn: Việc tiêu thụ nhiều thức uống có cồn làm tăng nguy cơ mắc ung thư vú vì lượng cồn tăng cao sẽ tăng kích thích sản xuất estrogen, tạo thuận lợi cho sự phân chia tế bào. Do đó cần hạn chế rượu bia, đồ uống có ga.
Bỏ thuốc lá: Những phụ nữ hút thuốc làm tăng 30% nguy cơ mắc ung thư vú, đặc biệt hút trước tuổi 20 và ít nhất 20 điếu mỗi ngày. Để phòng ngừa ung thư vú, chị em cần tránh hút thuốc lá và hít phải khói thuốc lá thụ động.
Thường xuyên kiểm tra ngực: Là biện pháp được bác sĩ khuyến cáo để kịp phát hiện dấu hiệu của ung thư vú ngay tại nhà.
Duy trì lối sống lành mạnh: Hãy luôn thực hiện theo chế độ dinh dưỡng phù hợp và tập thể dục thường xuyên. Không nên bỏ hút thuốc và hạn chế dùng thức uống có cồn.
Tập thể dục: Là một cách giúp bảo vệ và phòng ngừa ung thư vú rất hiệu quả vì nó làm giảm nguy cơ béo phì của cơ thể.
Khám định kỳ: Khám định kỳ 6 tháng/lần để kiểm tra bất thường ở vú và điều trị kịp thời.
Cảnh báo ung thư vú ở đàn ông Nghiên cứu gần đây cho thấy tỉ lệ ung thư vú ở nam giới đã tăng 26% trong 25 năm qua; hơn 10% đi khám thì khối u đã di căn lan sang các mô lân cận Bị sưng đau, sờ thấy khối u nhỏ ở dưới núm vú bên trái nhưng uống thuốc không đỡ, ông N.V.H. (46 tuổi, ở Hà Nội)...