Chiến tranh Biên giới 1979 Một góc nhìn hậu chiến
Nói về cuộc chiến, về lịch sử không phải để khoét thêm hận thù mà chỉ là để nhắc nhở những thế hệ tương lai về đất nước này, dân tộc này…
Ngày 5/3/1979, khi Cố Chủ tịch Tôn Đức Thắng công bố lệnh tổng động viên, Trung Quốc tuyên bố rút quân.
Sau khi rút quân, giới lãnh đạo và truyền thông Trung Quốc rêu rao đã hoàn thành mục tiêu của cuộc xâm lược là “dạy cho Việt Nam một bài học”.
Tuyên bố của Bắc Kinh không phải là hoàn toàn sai sự thật bởi mục tiêu của họ là tàn phá đất nước Việt Nam, giết hại đồng bào và chiến sĩ chúng ta và họ đã đạt được điều đó trên toàn tuyến biên giới phía Bắc.
Trường học, bệnh viện, cầu cống, trụ sở, làng mạc, thị xã và các công trình kinh tế, quân sự,… bị phá hủy gần như hoàn toàn.
Hàng nghìn người dân vô tội bị tàn sát, man rợ nhất là hơn 400 người Việt Nam bị lính Trung Quốc giết hại tại pháo đài Đồng Đăng.
Điều mà Bắc Kinh không thể và không bao giờ có thể làm là bẻ gãy ý chí độc lập tự cường, quyết tâm bảo vệ tổ quốc của người Việt. (Ảnh tư liệu của TTXVN)
Điều mà Bắc Kinh không thể và không bao giờ có thể làm là bẻ gãy ý chí độc lập tự cường, quyết tâm bảo vệ tổ quốc của người Việt.
Cuộc xâm lược đẫm máu nhất mà Trung Quốc thực hiện thời hiện đại đã củng cố “bài học” mà người Việt Nam vốn đã thuộc lòng, ấy là:
Nam quốc sơn hà Nam Đế cư
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
(Tạm dịch: Non sông Việt Nam là nơi Vua Nam ở, điều này đã được ghi nhận tại sách trời, vì sao những kẻ nghịch lỗ lại tới xâm phạm, chúng bay sẽ bị đánh tơi bời – Lý Thường Kiệt).
Chính trị, ở đâu hay bao giờ cũng thế, dù được tô vẽ dưới mọi màu sắc vẫn thường bị nghi hoặc về bản chất,…
Nói đến nước Mỹ, không ít người xem đó là hình mẫu của tự do, dân chủ song cũng không ít người – kể cả người Mỹ – cho rằng chính trường Mỹ là “vũ đài của sự dối trá,… là nơi khốc liệt và đầy thủ đoạn”.
Nhà xã hội học nổi tiếng, giáo sư Zygmunt Bauman trả lời phỏng vấn do phóng viên tạp chí Polityka – Jacek akowski – thực hiện cho rằng:
“Cuộc chiến với dối trá là bất khả chiến thắng. Dối trá tự bản chất là vĩnh cửu và có ở khắp nơi.
Georges Duhamel đã rất thông thái khi nói rằng: “Giả dối là nguyên tắc, sự thật là ngoại lệ” “.
Cuộc chiến mà Trung Quốc tiến hành chống Việt Nam năm 1979 không phải là ngoại lệ của giả dối chính trị bởi nó được khoác chiêu bài “phản kích tự vệ” khi mà người Việt không hề xâm phạm lãnh thổ Trung Quốc.
Không khuyến khích thói giả dối song cần phải làm thế nào để người dân biết nhận diện giả dối, biết cảnh giác đề phòng những kẻ vốn có truyền thống lịch sử giả dối và cũng cần phải biết cách lấy giả dối đối phó với giả dối.
Có quan điểm rằng chính khách, để đạt đến đẳng cấp lừa dối cả thế giới, trước tiên phải lừa dối chính những người bên cạnh mình.
Giới chóp bu Bắc Kinh khi tiến hành cuộc xâm lược Việt Nam đã lừa dối người dân Trung Quốc về sự cần thiết phải “dạy cho Việt Nam một bài học”.
Rất nhiều người Trung Quốc ở vùng núi giáp Việt Nam, có người còn chưa đọc thông viết thạo đã trở thành dân binh tải lương thực, vũ khí phục vụ cuộc chiến bởi dưới cái loa tuyên truyền của Bắc Kinh, họ xem phục vụ cuộc chiến là “nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc”?
Sẽ là ngây thơ nếu ai đó chủ tâm gieo vào quần chúng niềm tin về một chỗ dựa tinh thần nào đó trong khi mình bị lợi dụng như một quân cờ trên bàn cờ địa chính trị toàn cầu.
Sẽ là nguy hiểm nếu truyền cảm hứng cho dân chúng bằng sự mất cảnh giác của chính mình bởi “giả dối là nguyên tắc, sự thật chỉ là ngoại lệ”.
Video đang HOT
Trong màu sắc duy tâm, điểm đến cuối cùng trên con đường danh vọng của các chính khách hoặc là thiên đường, hoặc là địa ngục.
Dù là trên thiên đường, sẽ có lúc họ phải nhìn xuống hạ giới để nói lời xin lỗi những người ngã xuống trong chiến tranh ở tuổi đôi mươi, kẻ ở địa ngục vẫn có lúc phải đội mồ đứng dậy để cầu xin tha thứ.
Sự tàn bạo của cuộc chiến 1979 mà Trung Quốc tiến hành đâu chỉ tàn phá đất nước Việt Nam, giết hại bộ đội và dân thường Việt Nam?
Đó còn là vết thương cho đến hôm nay vẫn rỉ máu trong tâm trí không ít cựu binh lính và những gia đình Trung Quốc có người thân mất mạng trong cuộc chiến.
Còn người Việt, làm sao có thể quên đi nỗi đau mỗi khi nhắc, nhớ đến đồng đội và người thân đã ngã xuống hoặc bị sát hại trong cuộc chiến.
Nếu cha ông ta không ghi lại lịch sử hào hùng của người Việt thời Lý Thường Kiệt trên sông Như Nguyệt, thời Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo trên sông Bạch Đằng, Lê Lợi ở Chi Lăng, Nguyễn Huệ ở Đống Đa … thì người Việt có được như hôm nay?
Vậy tại sao chúng ta dường như vẫn ngại ngùng khi dạy cho con cháu về cuộc chiến đẫm máu chống xâm lược trên biên giới phía Bắc và phía Tây Nam những năm 70 thế kỷ trước?
Không phải những người viết sách giáo khoa không có tư liệu, càng không phải đánh giá công bằng lịch sử sẽ làm mất đi tình hữu nghị giữa các dân tộc hay ảnh hưởng đến ý thức hệ.
Hiện tại còn nhiều tài liệu chưa được giải mật về cuộc chiến, song nên chăng đã đến lúc nhìn lại, đánh giá lại một cách nghiêm túc để làm sao tránh được chiến tranh? Bối cảnh chính trị quốc tế, khu vực thời điểm đó như thế nào? Có lẽ vì thiếu đánh giá một cách khoa học về cuộc chiến nên người ta sợ nhắc đến nó?
Người Mỹ dựng lại phim về trận chiến đẫm máu Trân Châu Cảng hay số phận tù binh Mỹ bị Nhật bắt trong thế chiến 2 (bộ phim Unbroken – Không khuất phục) nhưng không vì thế mà hai nước Nhật – Mỹ trở nên thù nghịch.
Liên quan đến cuộc chiến chống xâm lược trên biên giới phía Bắc là cuộc chiến biên giới Tây Nam chống diệt chủng Polpot.
Như các nhà nghiên cứu quốc tế đánh giá, một trong những lý do khiến Trung Quốc tấn công Việt Nam ở phía Bắc là để tìm cách kéo lực lượng tinh nhuệ của quân đội Việt Nam khỏi Campuchia lúc đó đang làm nghĩa vụ quốc tế cao cả, tiêu diệt diệt chủng Polpot.
Không ai khác, chính xương máu của đồng bào và quân đội Việt Nam đã góp phần tiêu diệt một chế độ tàn bạo hiếm có trong lịch sử nhân loại.
Một chế độ mà những tên tội phạm đầu sỏ (Nuon Chea, Khieu Samphan, Ieng Sary và Ieng Thirith) đã bị Tòa án quốc tế truy tố về các tội ác chống lại loài người, diệt chủng và vi phạm nghiêm trọng các Công ước Geneva năm 1949.
Điều đáng sợ, đáng nói là những sự thật lịch sử bị bóp méo từ một phía sẽ dần chiếm lĩnh tâm trí nhân loại nếu chúng ta không làm gì hôm nay.
Nếu chúng ta im lặng hôm nay, sẽ khiến ngày càng có nhiều người ngộ nhận, rằng Việt Nam xâm chiếm biên giới, biển đảo của Trung Quốc, xâm lược Campuchia,… như giọng lưỡi bộ máy tuyên truyền bên kia biên giới vẫn ra rả từ 1979 đến nay.
Súng ống, bom đạn quân đội Trung Quốc bố trí ở Hoàng Sa, Trường Sa không thể nhằm đến Mỹ, Úc hay Nhật Bản nhưng khả năng bao phủ vùng trời, vùng biển của Việt Nam là một sự thật không thể phủ nhận.
Dạy cho con cháu những trang sử hào hùng đẫm máu và nước mắt cha ông chính là cách để tạo động lực xây dựng một nước Việt Nam tự cường, đủ sức mạnh đương đầu với bất kỳ thế lực ngoại xâm nào.
Một nước Việt Nam yếu về kinh tế và quân sự, nhân tâm phân tán lại chính là điều mà kẻ thù của dân tộc này hằng mong mỏi.
Niềm tin không tự nhiên sinh ra, không từ trên trời rơi xuống, niềm tin của dân tộc này không thể bị đánh đổi bởi niềm tin của dân tộc khác, và trên tất cả lịch sử một dân tộc không thể bị che phủ bởi ý thức hệ hay ý muốn chủ quan của riêng bất cứ ai.
Yêu chuộng hòa bình không có nghĩa là phủ nhận chiến tranh bởi chuẩn bị cho chiến tranh chính là cách để gìn giữ hòa bình.
Nói về cuộc chiến, về lịch sử không phải để khoét thêm hận thù mà chỉ là để nhắc nhở những thế hệ tương lai, rằng đất nước này, dân tộc này “dẫu có phải đốt cả dãy Trường Sơn, cũng phải giữ cho được tự do, độc lập”.
(Theo Giáo Dục)
Chiến tranh Biên giới 1979 Bài học của niềm tin
Chiến tranh xâm lược mà quân đội Trung Quốc tiến hành với chiêu bài "phản kích tự vệ" có thể đánh lừa người dân Trung Quốc nhưng không thể đánh lừa cả thế giới.
Hè năm 1966, khi Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, những sinh viên vừa nhập học khóa 11 Đại học Bách Khoa Hà Nội phải sơ tán lên Lạng Sơn.
Tàu chạy từ Hà Nội lúc tối, qua Kép một đoạn phải tăng bo vì cầu hỏng, tất cả vào rừng sơ tán đợi đến tối mới lại có tàu đi tiếp.
Đến Đồng Đăng lúc gần sáng, cả lớp lầm lũi đi, chẳng đứa nào buồn nói chuyện vì mệt và đói.
Chặng đường đi bộ khoảng 30 cây số từ ga Đồng Đăng đến Lũng Vài (xã Trùng Quán, huyện Văn Lãng) phải vượt qua một con dốc khá dài là dốc Bố Củng.
Thấy những xe quân sự Trung Quốc chạy, mấy đứa xui bọn con gái giơ tay vẫy, một xe dừng lại cho chúng tôi lên.
Việc đầu tiên là mấy người lính trẻ Trung Quốc phát cho chúng tôi mỗi người một quyển "Mao tuyển" bìa màu đỏ to hơn bàn tay, tiếp đó mỗi đứa nhận được một chiếc huy hiệu "lãnh tụ vĩ đại".
Vận dụng vốn tiếng Trung ít ỏi học ở phổ thông, mấy đứa "xia xia thủng chư mân", mấy người lính Trung Quốc cười vui vẻ móc túi cho thêm mỗi đứa một phong lương khô.
Tưởng chừng những kỷ niệm tốt đẹp ấy sẽ còn được nhân lên vì câu hát "Việt Nam Trung Hoa, núi liền núi, sông liền sông,...".
Không ngờ hơn chục năm sau, tháng 3 năm 1979, chúng tôi, những thày trò các trường Đại học trên địa bàn tỉnh Bắc Thái (nay là Thái Nguyên, Bắc Kạn) lại phải lên Lạng Sơn, lần này là trên những chiếc Zil ba cầu của Liên Xô.
Một trung đoàn tự vệ chiến đấu gồm đa số là giảng viên và sinh viên đại học được lệnh hành quân gấp lên mặt trận Khánh Khê, vũ khí trang bị cho các chiến sĩ chỉ có một khẩu tiểu liên K63, 200 viên đạn và mấy quả lựu đạn chày.
Bộ đội Việt Nam đánh trả quân Trung Quốc xâm lược tại Lạng Sơn năm 1979. (Ảnh trên vtc.vn)
Trên chốt tiền tiêu phía nam đầu cầu Khánh Khê các chiến sĩ phải ăn hạt bo bo luộc với cà pháo, tuy không có những trận đánh lớn nhưng tổn thất là không tránh khỏi.
Thấm thoắt chỉ hai năm nữa là tròn 40 năm ngày quân đội Trung Quốc vượt biên tấn công toàn tuyến biên giới phía bắc Tổ quốc ta.
Có nhìn tận mắt cảnh trâu chạy lạc vào bãi mìn quân Trung Quốc gài trên triền đồi đối diện bên kia sông bị nổ tung, có tận mắt chứng kiến nghĩa trang liệt sĩ xây vội bên đầu cầu Khánh Khê, mấy trăm ngôi mộ liệt sĩ, chỉ có mộ liệt sĩ Lê Đình Chinh là được xây vôi cát còn lại chỉ là những nấm đất mới hiểu thế nào là "hữu nghị", thế nào là "hậu phương đáng tin cậy của nhân dân Việt Nam".
Cuộc chiến tranh xâm lược mà quân đội Trung Quốc tiến hành với chiêu bài "phản kích tự vệ" có thể đánh lừa người dân Trung Quốc nhưng không thể đánh lừa cả thế giới.
Đó không chỉ là cuộc xâm lược quy mô lớn mà còn là cuộc chiến tranh phá hoại không khác gì chiến tranh hủy diệt bằng không quân mà Mỹ đã tiến hành trên miền Bắc Việt Nam từ tháng 8 năm 1964.
Khẩu hiệu mà Mỹ rêu rao là "đưa Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá", còn giới cầm quyền Bắc Kinh khi đó thì cao giọng với thế giới, rằng để "dạy cho Việt Nam một bài học", thực chất phía sau tuyên bố ngông cuồng ấy là gì?
Trả lời câu hỏi này, nếu lấy quan điểm của người Việt e là sẽ có người bảo không khách quan, vậy hãy xem người không mang dòng máu Việt nghĩ gì.
Trong lời giới thiệu cuốn sách "China and the Vietnam Wars, 1950-1975 (The New Cold War History)" của tác giả Qiang Zhai (Trại Cường), nhà sách Amazon.com viết:
"Khi xem xét cách hành xử của Trung Quốc với Việt Nam, Zhai cung cấp những hiểu biết quan trọng về chính sách đối ngoại của Mao Trạch Đông và những động cơ tư tưởng và địa chính trị đằng sau nó.
Trong suốt những năm 1950 và 1960, ông (Zhai) cho thấy, Mao coi Mỹ là mối đe dọa chính đối với an ninh của những người Cộng sản Trung Quốc và do đó (họ) thấy hỗ trợ cho Hồ Chí Minh như là một cách tốt để làm suy yếu ảnh hưởng của Mỹ trong khu vực Đông Nam Á từ cuối những năm 1960 và 1970.
Tuy nhiên, khi Mao coi là mối đe dọa lớn hơn từ Liên Xô, ông bắt đầu để điều chỉnh chính sách của mình và khuyến khích Bắc Việt chấp nhận một thỏa thuận hòa bình với Hoa Kỳ". [1]
Trong sách tác giả Qiang Zhai viết: "Mặc dầu họ (Trung Quốc) tuyên bố chính họ là những môn đồ của chủ nghĩa quốc tế Mác-Lênin song họ lại kế thừa hoàn toàn cái di sản lịch sử của Trung Hoa: quan niệm Đại Hán theo đó Trung Quốc là cái nôi của thế giới.
Các quốc gia nhỏ bé khác bên ngoài Trung Quốc, trong đó có Việt Nam, là man di và phải là những chư hầu trong vùng ảnh hưởng của Trung Quốc". [4]
Bìa cuốn sách "China and the Vietnam Wars, 1950-1975" trên Amazon.com
Chiến thắng của Việt Nam trong cuộc chiến chống Mỹ thống nhất đất nước không phải là điều mà "người bạn lớn" mong đợi.
Điều mà họ muốn - như Trại Cường khẳng định - Việt Nam "phải là chư hầu trong vùng ảnh hưởng của Trung Quốc" và đó mới chính là điều thôi thúc họ tiến hành cuộc chiến xâm lược đẫm máu nhất chống lại một quốc gia có chủ quyền kể từ sau chiến tranh Triều Tiên.
Thống kê chưa đầy đủ cho thấy: "quân Trung Quốc còn thực hiện chính sách cướp bóc và phá hoại triệt để ở các khu vực chiếm đóng được: ước tính 320/320 xã, 735/904 trường học, 428/430 bệnh viện, bệnh xá, 41/41 nông trường, 38/42 lâm trường, 81 xí nghiệp, hầm mỏ, 600.000 mét vuông nhà ở và 80.000 héc-ta hoa màu ở khu vực chiến sự bị tàn phá, 400.000 gia súc bị giết và bị cướp.
Khoảng một nửa trong số 3,5 triệu dân ở biên giới bị mất nhà cửa, tài sản và phương tiện sinh sống.
Các thị xã lớn Lạng Sơn, Cao Bằng và Cam Đường gần như bị hủy diệt hoàn toàn, lính Trung Quốc dùng mìn đánh sập hầu hết các công trình, nhà ở, cầu, đường bộ và đường sắt...
ngay cả những di tích lịch sử hoàn toàn không có ý nghĩa gì về mặt quân sự như hang Pắc Bó (Cao Bằng) - từng là nơi ở và làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, động Tam Thanh, Nhị Thanh (Lạng Sơn)... cũng bị phá hoại...".[2]
Nhiều năm trước, có dịp lên thăm anh Dương Chí Khuầy, bạn học cùng lớp, cùng tổ hồi đại học, anh là con trai đại tá Dương Đại Lâm, cần vụ của Bác Hồ. Nhà ông Dương Đại Lâm cách hang Pắc Bó chưa đến "một quăng dao".
Mấy đứa chúng tôi được anh Khuầy dẫn lên thăm hang, vòm hang lúc đó chỉ rộng hơn một mét vì đã bị lính Trung Quốc giật mìn đánh sập, dòng suối phía trước cửa hang có rất ít nước, trơ trọi những viên đá cuội, không còn "bàn đá chông chênh dịch sử Đảng", chỉ còn lại cây ổi khẳng khiu phía ngoài hang.
Cố Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai từng nhận định về Chủ tịch Hồ Chí Minh như sau: "Công ơn của Người đối với Tổ quốc chúng tôi cũng to lớn và vô cùng hiển hách...". [3]
Vậy mà một di tích lịch sử cách mạng vô cùng quý giá của nhân dân Việt Nam, gắn với quãng đời hoạt động cách mạng của Hồ Chủ tịch từ năm 1941 vẫn bị quân Trung Quốc nổ mìn phá sập.
Đối chiếu với lời cố Thủ tướng Chu Ân Lai, ai là kẻ vô ơn, bạc nghĩa, ai là kẻ sẵn sàng chà đạp lên tinh thần quốc tế cao cả nhằm thỏa mãn tham vọng bắt các nước nhỏ làm chư hầu như nhận định của Qiang Zhai?
Năm 2005, một người gốc Hoa, Xiaoming Zhang, giảng viên trường Cao Đẳng Chiến tranh không quân (Air War College) thuộc Bộ Không Quân Mỹ đã xuất bản bài viết "China's 1979 War with Vietnam: A Reassessment" (Một cách đánh giá lại cuộc chiến 1979 của Trung Quốc với Việt Nam).
Bài này được đăng trên tờ China Quarterly (tạm dịch: Tài liệu quý về Trung Quốc), một tạp chí quốc tế có uy tín xuất bản tại Anh Quốc.
Tác giả viết: "Chủ thuyết chính trị của Mác, mặc dầu được cả hai nước suy tụng cũng không ngăn cản được việc Trung Quốc phát động một cuộc "chiến tranh tự vệ" chống lại quốc gia láng giềng nhỏ bé một khi quyền lợi dân tộc tối cao bị đe dọa...
Bắc Kinh luôn nói rằng họ không bao giờ gây sức ép về chính trị và kinh tế thông qua viện trợ vật chất và quân sự khổng lồ cho Hà Nội, nhưng họ lại muốn Hà Nội phải thừa nhận vai trò lãnh đạo của Trung Quốc đối với phong trào giải phóng dân tộc trong khu vực và trên thế giới" (bản dịch của Thời đại mới). [4]
Cuộc chiến tranh xâm lược mà Trung Quốc phát động năm 1979 chống Việt Nam không đơn giản chỉ là cuộc chiến biên giới giữa hai quốc gia có chủ quyền, chung ý thức hệ mà còn cho thấy nó báo hiệu một thời kỳ mới của lịch sử nhân loại.
Đó là sự kết thúc thời kỳ ngắn ngủi tồn tại hai hệ thống xã hội đối lập mà chúng ta quen gọi là "phe" - phe Xã hội chủ nghĩa và phe Tư bản chủ nghĩa.
Tiếng súng mà Trung Quốc phát động trên tuyến biên giới dài 900 km giữa hai nước chính là đòn giáng mạnh vào niềm tin về một thế giới đại đồng.
Là sự khẳng định chân lý "không có bạn bè hay kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc là vĩnh viễn".
Hơn chục năm sau, khi Liên Xô tan rã cũng là lúc phe Xã hội chủ nghĩa rơi vào khủng hoảng, thay vào đó hàng loạt nước Xã hội chủ nghĩa Đông Âu, trừ Nga, trở thành thành viên NATO hoặc Liên minh Châu Âu.
Ảo mộng đưa Trung Quốc thành lãnh tụ của phong trào giải phóng dân tộc trong khu vực và trên thế giới - như nhận định của Xiaoming Zhang - sụp đổ là hậu quả tất yếu khiến giới lãnh đạo Bắc Kinh quay lại với chính mình.
Đó là lý do vì sao chủ thuyết "phục hưng dân tộc Trung Hoa" ra đời.
Thực ra, tìm trăm phương nghìn kế để trở thành lãnh tụ phong trào giải phóng dân tộc thế giới chỉ là chiêu bài che dấu những gì mà giới thống trị Trung Quốc đã làm hàng nghìn năm qua và sẽ vẫn tiếp tục trong thời gian sắp tới.
Mộng ước ấy nằm trong ngay cái tên "Trung Quốc" - quốc gia là trung tâm của thiên hạ.
Chiến lược "cây gậy và củ cà rốt" của Mỹ đã được Trung Quốc vận dụng sáng tạo và nâng thành nghệ thuật.
Chỉ cần một chút viện trợ kinh tế, chỉ cần lôi kéo một quốc gia, Bắc Kinh có thể biến ASEAN thành một tổ chức lỏng lẻo không thể đồng thuận những vấn đề quốc tế liên quan đến Trung Quốc.
Giới lãnh đạo Bắc Kinh say sưa với sự tăng trưởng ngoạn mục về kinh tế đang có ảo vọng sẽ thay thế Mỹ trở thành siêu cường thống trị thế giới cả về kinh tế, quân sự lẫn chính trị.
Và một lần nữa, những cái đầu dân tộc chủ nghĩa lại tìm cách thực hiện mộng ước "thế giới đại đồng" không phải theo một học thuyết xa vời nào đó mà là những vành đai, những con đường tơ lụa mới, bằng những đạo quân trá hình - công nhân, nông dân, ngư dân hiện diện bất kỳ nơi nào có thể.
Trong bối cảnh ấy, chịu ảnh hưởng nhiều nhất, rõ nhất không ai khác chính là nước Việt Nam chúng ta, bởi chúng ta có thể chọn bạn bè nhưng không thể chọn láng giềng.
(Theo Giáo Dục)
Chiến tranh Biên giới 1979: Không thể quên lãng Nhắc để dân ta nhớ, biết ơn và tôn vinh những chiến sĩ và đồng bào đã hy sinh để bảo vệ biên cương tổ quốc, như chúng ta đã và sẽ vẫn tôn vinh bao nhiêu anh hùng liệt sĩ trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Không thể quên lãng. Tưởng niệm cuộc chiến 1979: Không có gì nhạy cảm/...