Chiến tranh Biên giới 1979: Giây phút sinh tử ở Pháo đài Đồng Đăng
Địch vây khốn nhiều ngày, chúng đã dùng pháo kích, ốp bộc phá, đổ xăng, phun chất độc… nhưng không một chiến sĩ nào đầu hàng. Tất cả đều quyết tâm chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.
Đó là những gì chúng tôi được nghe, mường tượng về giây phút sinh tử trong trận chiến ở pháo đài Đồng Đăng, chiến tranh biên giới năm 1979.
Vào một buổi tối hồi năm 2013, theo sự sắp xếp của Bộ chỉ huy Biên phòng tỉnh Lạng Sơn, tôi đã được cùng đoàn làm phim trực tiếp phỏng vấn AHLLVT Đại tá Nông Văn Pheo, Phó Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Biên phòng Lạng Sơn.
Đạo diễn Vũ Ngọc Khôi, đoàn làm phim “Những trang sử biên thùy”, ngồi lặng lẽ ở góc phòng lắng nghe từng lời kể.
Năm 1978, Anh hùng Nông Văn Pheo, lúc đó mới là binh nhất trực tiếp tham gia đại đội 5 Công an Vũ trang (nay là Biên phòng), bảo vệ Thị trấn Đồng Đăng.
Qua lời kể của Đại tá Nông Văn Pheo, người sống sót sau nhiều trận chiến ở pháo đài Đồng Đăng, khung cảnh cuộc chiến tái hiện như một cuốn phim.
Pháo đài Đông Đăng đổ nát sau chiến tranh (Ảnh Hồng Chuyên)
Trận chiến ác liệt
“Đêm 16 và rạng sáng 17/2/79, khoảng 4h30 sáng, quân Trung Quốc tiến hành bắn pháo từ bên kia biên giới vào Việt Nam. Pháo đài Đồng Đăng là một trong những điểm đầu tiên Trung Quốc đánh đòn phủ đầu.
4h30 ngày 17/02, toàn bộ lực lượng biên phòng và bộ đội được lệnh di chuyển lên pháo đài sẵn sàng chiến đấu.
5h30, bộ binh, xe tăng Trung Quốc tràn vào lãnh thổ Việt Nam tại vị trí cột mốc 16. Đại đội 5 Công an Vũ trang Lạng Sơn của chúng tôi do đồng chí Đại đội trưởng Trần Hà Bắc trực tiếp chỉ huy chiến đấu. Trước mắt chúng tôi, quân địch càng lúc càng đông, với sự yểm hộ của nhiều xe tăng, pháo… tràn từ phía biên giới sang, trong khi đó, vũ khí của chúng tôi chỉ có AK, CKC, đại liên, B40….
Đoán biết được địch muốn tấn công vào phía tây pháo đài, đồng chí đại đội trưởng ra lệnh chặn đánh. Trong lúc chiến đấu tiêu diệt địch, 5, 6 xe tăng Trung Quốc tràn lên, đồng chí Trần Hà Bắc ra lệnh cho đồng chí Nguyễn Trường Bảy và đồng chí Đỗ Văn Dưỡng trực tiếp chi viện cho đơn vị bạn bắn xe tăng.
Chỉ trong chớp mắt, đồng chí Nguyễn Trường Bảy, đồng chí Đỗ Văn Dưỡng đã bắn cháy một xe tăng của địch nhưng không may cả 2 đồng chí bị thương, được bộ đội đưa vào pháo đài cấp cứu.
Địch tiếp tục đánh vào pháo đài bằng hỏa lực mạnh hơn. Đồng chí binh nhất Lê Minh Trường bật dậy, dùng B40 bắn cháy một xe tăng của địch. Chiếc xe tăng thứ nhất vừa cháy, đồng chí nạp đạn ngắm bắn chiếc thứ 2. Chiếc xe tăng thứ 2 vừa bị bắn đứt xích, đồng chí Lê Minh Trường không may bị trúng đạn và hy sinh.
Trong lúc trận chiến đang diễn ra ác liệt, tôi với chuẩn úy Mai Chiến Tranh chặn hướng tấn công phía Đông của pháo đài.
Địch đánh càng ngày càng mạnh, dùng nhiều hỏa lực và bộ binh bao vây, đồng chí Trần Hà Bắc, đại đội trưởng, hy sinh tại chỗ. Đồng chí Hoàng Quốc Hùng trung úy thay thế chỉ huy chiến đấu.
Địch tấn công dồn dập, đồng chí Hoàng Quốc Hùng cũng hy sinh. Sau đó địch tràn sang phía tôi và đồng chí Mai Chiến Tranh. Tôi bắn liên tiếp, súng AK hết đạn, tôi chộp khẩu trung liên RPD phía sau, không ngừng nhả đạn. Địch vẫn tràn lên. Đồng chí Mai Chiến Tranh bị bắn vào sườn, máu chảy nhiều. Tôi tiếp tục bắn, địch thương vong nhiều, chúng dừng tấn công.
Trong lúc đó, chúng tôi dìu anh Tranh xuống tầng 1. Chị Tấm là vợ anh Tranh ở Cao Bằng xuống thăm, cũng bị mắc kẹt tại pháo đài Đồng Đăng, chị cùng đơn vị tham gia nấu cơm phục vụ cán bộ chiến sĩ.
Chị Tấm hỏi tôi: “Chú ơi, anh Tranh có bị làm sao không?” Tôi trả lời động viên chị: “Báo cáo chị, anh Tranh vẫn khỏe…”. Vừa lúc đó, anh Tranh nói: “Tấm ơi anh bị thương rồi”, chị Tấm lao lại bên anh dìu anh vào khu chăm sóc thương binh.
Video đang HOT
Chúng tôi trở ra, địch cách cửa pháo đài chừng 5 mét, chúng ném lựu đạn vào trong. Tôi thấy quả lựu đạn rơi xuống chân, nhanh như cắt, tôi cầm quả lựu đạn, ném ra ngoài, sau tiếng nổ “bùm”, đất đá bốc lên. Thoáng thấy bóng địch lao vào, tôi bỏ khẩu súng ngắn vừa hết đạn xuống, chộp lấy khẩu AK. Vừa hay địch nhảy đến, tôi đâm lưỡi lê và bóp cò súng, một tên đổ vật xuống trước mặt tôi.
Cùng lúc đó, quân địch ào lên, tôi tiếp tục lia một loạt đạn. Trận chiến tạm dừng.
Một lúc sau, quân Trung Quốc pháo kích dữ dội. Trong lúc pháo kích có khoảng 7 xe tăng tiến sát pháo đài, siết chặt vòng vây.
Lúc đó, tình thế nguy hiểm, xạ thủ B40 đã hy sinh, địch ở dưới, ta ở trên, việc bắn B40 khá khó, chúng tôi chỉ còn cách tiêu diệt bộ binh địch. Chúng tôi bắn liên tục về phía địch, hết đạn, súng hóc lại tiếp tục chộp lấy súng của đồng đội đã hy sinh để giáng trả. Trung Quốc vẫn không chiếm được pháo đài.
Địch tiếp tục duy trì chiến thuật bắn pháo trước, sau đó đưa bộ binh lên. Khi nào địch nã pháo, anh em chui xuống giao thông hào, khi nào bộ binh của chúng lên anh em lại nhỏm dậy chiến đấu. Chúng tôi thông báo cho nhau hướng tấn công của địch để tập trung anh em giáng trả quyết liệt.
Đến đêm 17/2, địch dùng lực lượng thám báo dò la, đánh bất ngờ quân ta. Quân ta dùng xẻng cá nhân đào hàm ếch ở giao thông hào vừa ẩn mình tránh pháo vừa chặn thám báo đột nhập.
Sang ngày 18/2, Trung Quốc tấn công mạnh hơn, những trận chiến đấu dày hơn, anh em cũng đẩy lui nhiều đợt tiến công của địch nhưng vũ khí đạn dược đã hết, sử dụng quá nhiều nên hỏng hóc, cán bộ chiến sĩ bị thương, hy sinh già nửa.
Đến lúc này, Trung Quốc vẫn không chiếm được pháo đài.
Đêm 18/2, Trung Quốc dùng lực lượng thám báo và biệt kích, để nắm tình hình và tràn lên. Chúng tôi chia nhau ngủ để canh chừng, cứ thấy bóng quân địch là chúng tôi dùng súng AK lia xuống.
Ngày 19, tiếp tục như vậy. Tất cả chiến sĩ xác định chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.
Ngày 20, cũng diễn ra dữ dội. Chúng tôi không thể ăn uống được gì, anh nuôi mang cơm lên, đạn và pháo cày xới liên tục, cơm canh đều trộn đất, cát.
4 giờ chiều ngày 21, Trung Quốc dùng pháo bắn dữ dội vào Pháo đài Đồng Đăng, xung quanh khói bụi mù mịt. Vừa nghe tiếng pháo rơi xuống chiến hào, tôi ngất đi không biết gì nữa. Tỉnh dậy, việc đầu tiên tôi tìm súng và lay đồng đội, những đồng đội xung quanh tôi đã bất động máu chảy tứa ra. Tôi bò vào bên trong pháo đài.
Nghe tiếng rì rầm từ cửa pháo đài vọng vào, anh em lúc đó không còn nhiều, chúng tôi nghĩ mình có thể sẽ chết ở đây. Nhưng không thể nằm yên chờ chết, chúng tôi dùng súng bắn ra ngoài, định mở đường máu nhưng càng bắn, địch càng bắn trả dữ dội. Sau khi im tiếng súng, địch dùng loa gọi chúng tôi ra đầu hàng.
Cán bộ Biên phòng dẫn đoàn làm phim đến của hầm pháo đài, nơi trước đây giao tranh ác liệt (ảnh Hồng Chuyên)
Không bỏ cuộc
Lúc đó, còn khoảng hơn 10 người, anh em đều quyết một lòng chiến đấu, thà chết chứ không đầu hàng. Trung Quốc dùng thuốc nổ ốp vào cửa hầm làm sập rất nhiều ụ pháo, bụi khói mù mịt. Sau tiếng nổ, họ tiếp tục phun vào chất gì đó, ai nấy nước mắt dàn dụa, sặc, ho… Địch tiếp tục dùng loa gọi ra đầu hàng.
Chúng tôi di chuyển xuống tầng 2, tìm đồ ăn. Ai cũng nghĩ, mình sẽ chết ở đây, bảo nhau nhắm mắt lại nghĩ đến người thân một lần cuối cùng…
Ngồi nghĩ một lúc rồi lại bàn nhau “không thể chết dễ dàng như thế”, chúng tôi quyết định đào đường khác để thoát vòng vây địch. Phía trên Trung Quốc tiếp tục đánh bộc phá sập tầng 1. Chúng tôi di chuyển xuống tầng 3, để tránh sức ép bộc phá, một số anh em thương binh không chịu được sức ép đã hy sinh…
Tầng 3 tối đen như mực, chúng tôi tháo pin ở các máy thông tin liên lạc cho vào đèn pin để lấy ánh sáng, soi các ngóc ngách, tìm cuốc xẻng bộ binh, mò xem chỗ nào đất mềm để đào đường thoát. 8, 9 anh em nằm nối đuôi nhau đào và bới đất. Thay phiên nhau đào, ai khát nước, khó thở lại đổi phiên lùi xuống phía sau. Nước uống là những vũng nước đọng, bùn lẫn máu anh em. Cuốc xẻng không đủ chúng tôi dùng tay không bới đất. Bàn tay tôi tóe máu. Đào một đoạn thì vướng cục đá lớn, anh em quay lại ôm nhau khóc. Nhưng rồi lại động viên nhau đào tiếp.
Đào mãi, đào mãi thì thấy có rễ cây, chúng tôi mừng lắm, đào một lúc thì thấy man mát, anh em reo lên sung sướng.
Một lúc nữa, anh Tranh reo lên: “Sáng rồi”
Tôi bảo: “Cẩn thận không được nói to, địch mai phục bên trên. Đồng chí nhìn xem trời sáng là ban ngày, có sao là ban đêm”
Anh Tranh bảo: “Có sao”
Anh Tranh thò đầu lên nhìn quanh không có bóng địch. Chúng tôi khó nhọc chui ra. Không ai bảo ai, chạy tản ra các hướng, đề phòng địch.
Riêng tôi dìu đồng chí Hùng đi ra bờ suối uống nước, uống xong nước trời tang tảng sáng, nhìn thấy xác quân Trung Quốc nổi ngay gần.
Trời sáng, tôi và đồng chí Hùng đi tìm chỗ ẩn nấp. Bụng đói cồn cào, đồng chí Hùng đau đớn rên khe khẽ, nước mắt trào ra. Xung quanh có mấy cây chuối nhưng chúng tôi không dám bẻ sợ bị lộ. May sao tôi nhìn thấy cây chuối bị trâu ăn dở, tôi dùng tay móc nõn chuối, cả hai ăn cầm hơi.
Chờ mãi, nghe tiếng chim kêu rủ nhau vào ngủ, tôi đoán trời đã tối, chúng tôi tiếp tục tìm đường về đơn vị, bằng cách bò theo đường bờ suối để tránh bị phục kích.
Nhưng đi một đoạn thì lọt ổ phục kích của quân Trung Quốc, súng nổ mạnh, tôi và đồng chí Hùng chạy vào núi đá, hai người lạc nhau từ đó. Còn mình tôi, tay vẫn lăm lăm quả lựu đạn. Bụng bảo dạ, nếu địch bắt sẽ cho nổ lựu đạn để liều chết.
Chạy miết, tôi tìm được vườn mía của người dân, tôi ẩn nấp ở đó và ngồi dậy ăn liền mấy khúc. Ăn xong, tôi thấy người khỏe lại, tôi lấy sức leo lên núi, nghe thấy có tiếng Việt Nam, tôi mừng lắm. Mình đã sống rồi, tôi lại gần nói to: “Các đồng chí có phải bộ đội Việt Nam không”. Có tiếng trả lời: “Phải”. Nhìn thấy người lính Việt Nam mang quân hàm đỏ, tôi mừng phát khóc. Tôi đã thoát chết trở về với đồng đội…
Câu chuyện về cuộc chiến đấu anh dũng pháo đài Đồng Đăng và sự trở về thần kỳ của anh hùng Nông Văn Pheo kết thúc, chúng tôi vẫn lặng đi không nói được câu gì. Riêng đạo diễn Vũ Ngọc Khôi đứng dậy bắt tay người lính Biên phòng, người đồng đội của mình, mắt ông rưng rưng lệ.
Chắc ông đã được giải đáp phần nào về những gì diễn ra trong chiến tranh biên giới, nơi pháo đài đổ nát kia. Ông cũng nghĩ đến những người bạn, những người quen, những người đồng đội của mình, có thể vẫn còn nằm ở dưới những ngóc ngách pháo đài.
(Ghi theo lời Anh hùng LLVT, Đại tá Nông Văn Pheo)
(Theo Infonet)
Chiến tranh biên giới Vị Xuyên: Lính Trung Quốc đông như kiến, chết như ngả rạ
Mọi vị trí chốt giữ thi nhau nhả đạn, phía dưới là những cột khói đen trùm lên, bốc cao nghi ngút là điều mà chiến tranh biên giới Vị Xuyên chứng kiến.
Phút nghỉ ngơi hiếm hoi của các chiến sĩ Mặt trận Vị Xuyên Ảnh tư liệu.
Theo ký ức chiến tranh biên giới Vị Xuyên của những cựu binh Đỗ Minh Sáng, Đường Minh Tuấn (Sư đoàn 313), thì những ngày đầu tháng 4, pháo Trung Quốc bắn lên điểm cao 1509 rát lắm. Các chiến sĩ chốt giữ phải ăn gạo sấy thay cơm. Không ai được tắm. Phải đi bộ gần tiếng đồng hồ mới xuống được phía dưới để lấy nước, mà trên đường đi mất mạng như chơi.
Pháo Trung Quốc từ biên giới bên kia bắn sang không theo một quy luật nào cả. Có ngày từ sáng đến trưa chúng bắn cầm canh từng quả một, nhưng đến chiều lại dội xuống một lúc cả ngàn quả, khói bụi mịt mù, các chiến sĩ chốt giữ ai nấy tai ù điếc đặc.
Cựu binh Đường Minh Tuấn
Cựu binh Đường Minh Tuấn (Hương Canh, Vĩnh Phúc) là một trong những người chốt giữ trên điểm cao 1509 từ năm 1981, có nhiệm vụ quan trắc tính toán tọa độ bắn cho cho pháo binh ta bắn yểm trợ bảo vệ cao điểm nếu bị Trung Quốc tấn công. Kể về câu chuyện pháo Tàu bắn ròng rã suốt hơn 3 tuần lễ lên các điểm chốt giữ của bộ đội ta, ông nhận định: "Bên cạnh mục tiêu phá hoại các trận địa, thì việc chúng bắn pháo liên miên, lúc nhiều lúc ít chính là để nhằm gây ức chế, căng thẳng tột độ cho tất cả mọi người ".
Cấp trên nhận định địch có thể tiến công bộ binh bất cứ lúc nào. Cả tháng trời, mỗi đêm ai nấy chỉ ngủ được tầm 2 tiếng. Trên đỉnh 1509, mọi người thay nhau canh gác, chia thành các tổ, chỉ cần nghe thấy có tiếng loạt soạt ở bất cứ đâu là được lệnh bắn liền, bởi bọn thám báo Trung Quốc trong những ngày này hoạt động liên tục, tìm mọi cách mò lên đỉnh núi nắm tình hình phòng thủ của Đại đội 22.
Đúng 5h sáng ngày 28/4/1984, pháo Trung Quốc bắn dồn dập lên cao điểm. Lần này, chúng bắn rát hơn hẳn, ai nấy chỉ còn nghe thấy tiếng "ục, ục", một mớ âm thanh hỗn tạp cùng đất đá, mảnh đạn ném rào rào vào trong hầm, khói bụi mù mịt. Dự đoán bộ binh Trung Quốc sắp tấn công, mọi người giữ vững vị trí sẵn sàng chiến đấu.
Cựu binh Đỗ Minh Sáng miêu tả khí thế chiến đấu của các chiến sĩ trên điểm cao 1509.
Khoảng hơn tiếng đồng hồ, tiếng pháo thưa dần, Trung Quốc lại chuyển sang bắn pháo giấy (loại pháo chỉ có tiếng nố trên không, không gây sát thương, mục đích hù dọa để mở đường cho bộ binh tiến công). Cựu binh Đường Minh Tuấn chạy ra khỏi hầm quan sát, chỉ thấy pháo địch cày nát cả trận địa phía trước, khu rừng trúc trên đỉnh 1509 trước xanh mướt, giờ thì chẳng còn gì.
Bên phía mỏm 1 do trung đội 3 chốt giữ, nghe rõ tiếng của Trung đội trưởng Đỗ Minh Sáng quát rất rõ nhắc anh em vào vị trí chiến đấu. Bên mỏm Cây Khô có tiếng súng AK và tiếng đại liên, lựu đạn nổ liên tục, địch đã tiến đánh lên vị trí ấy.
Qua ống nhòm, phía trước mặt cựu binh Đường Minh Tuấn liên tiếp xuất hiện những tốp người lố nhố, đi theo đội hình kéo dài, thi nhau tràn lên đỉnh 1509.
"Chúng quá đông, chắc phải cỡ trung đoàn. Địa hình nhỏ bé thế mà cứ chen chúc, xô đẩy nhau kiểu như chạy loạn ấy. Chúng tôi thấy đi đầu là tốp áo đen của dân công, mãi phía sau mới thấy xuất hiện các tốp lính chuyên nghiệp với quân phục xanh lét, nhìn rất rõ. Kiểu như chúng đẩy các tốp dân công lên trước làm bia đỡ đạn hay sao ấy.
Trước khi xảy ra chiến sự, trên đỉnh 1509 nhìn qua đất Trung Quốc, chúng tôi thấy vẫn cực kỳ lặng lẽ, không có những trại lính, không thấy có nhiều phương tiện chiến tranh, dân cư bên ấy vẫn sinh hoạt bình thường, không xảy ra các cuộc tranh chấp lẻ tẻ về đường biên trên đỉnh núi. Có vẻ như quân Trung Quốc đã lặng lẽ đào hầm hào, công sự lên tới gần đỉnh núi để mở đường cho bộ binh lên xâm lấn ", ông Tuấn hồi tưởng.
Nói về cuộc tấn công lên đỉnh 1509 của quân Trung Quốc, cựu binh Nguyễn Văn Hùng (Sơn Dương, Tuyên Quang) nhớ lại: "Miêu tả thế nào nhỉ, không phải nói quá nhưng lính Trung Quốc đông như kiến cỏ, đến mức mà cứ mỗi quả ĐKZ tôi phóng xuống, phải dọn sạch cỡ một trung đội. Nhưng vừa bắn xong, xác lính Trung Quốc bị hất tung lên, còn chưa kịp rơi xuống thì ngay vị trí vừa bắn ấy, quân địch đã lại đông đặc bâu kín, lớp này lớp khác, như là sóng nước ấy".
Cựu binh Nguyễn Văn Hùng miêu tả cảnh bắn ĐKZ trên đỉnh 1509.
Cho đến hiện tại, các đồng đội vẫn gọi ông Hùng với cái tên thân mật "Hùng ĐK", vì thành tích bắn ĐKZ trên đỉnh 1509 vào những ngày 32 năm trước. Ông Hùng bắn cỡ vài chục quả, diệt địch nhiều quá, không đếm được.
Ở trên đỉnh núi, không thể kê súng lên kệ như cách thông thường, ông Hùng cứ thế bê ĐKZ lên vai bắn xuống, bắn đến nỗi 2 lỗ tai điếc đặc ngẩn ngơ. 32 năm sau, giữa thời bình, ảnh hưởng của cuộc chiến vẫn khiến các đồng đội nhiều lúc phải nói thật to bên tai, cựu binh Nguyễn Văn Hùng mới có thể nghe thấy.
Với ông Hùng, những ký ức trên 1509 vẫn còn ám ảnh, đến cả trong giấc mơ. Trở về sau cuộc chiến, nhiều đêm ông trằn trọc không ngủ được vì thương nhớ đồng đội, vì những ký ức bi hùng trong trận tử chiến. Có những khi, người nhà bỗng thấy ông Hùng bật dậy giữa đêm khuya, hô lớn: "Bắn, bắn đi, quân Trung Quốc đến rồi, bắn cho bằng hết bọn xâm lược hung bạo này...".
Quay trở lại câu chuyện về cuộc tấn công đầu tiên lên đỉnh 1509, cựu binh Đường Minh Tuấn kể tiếp: Ngay khi thấy lính Tàu tràn sang, mọi vị trí chốt giữ thi nhau nhả đạn, phía dưới là những cột khói đen trùm lên, bốc cao nghi ngút, kèm theo đó là những bóng đen bị hất tung lên, rơi xuống nằm bất động. Lúc này, ở các trận địa phối hợp, ta cũng phát hỏa đánh trả, pháo 105 ly, cối 82 ly, H12 đồng loạt bắn tới tấp. Trận địa cối từ bình độ 1200 và của Trung đoàn 457 đặt ở Nậm Ngặt bắn vào đội hình địch rất chính xác.
Quân Trung Quốc thương vong vô số, kêu la náo loạn ở phía dưới. Những tốp đi đầu tập trung lại và tiến vào đường hào hình râu tôm có sẵn trên đỉnh 1509, nhưng ngay tức khắc tan xác do mấy quả mìn của một chiến sĩ tên Thủ cài sẵn, cộng thêm hỏa lực của các chiến sĩ khác, vài trung đội địch ra đi sạch sẽ.
Lính Tàu không dám xông lên nữa trước sự chống trả quyết liệt của bộ đội ta. Cuộc tiến công đầu tiên lên đỉnh 1509 thất bại thảm hại, chúng kêu la ầm ỹ, gọi pháo và các loại hỏa lực khác bắn trùm lên các trận địa chốt giữ, phía các chiến sĩ đã bắt đầu có thương vong.
Còn tiếp
Theo VTC
Chiến tranh Biên giới 1979 Một góc nhìn hậu chiến Nói về cuộc chiến, về lịch sử không phải để khoét thêm hận thù mà chỉ là để nhắc nhở những thế hệ tương lai về đất nước này, dân tộc này... Ngày 5/3/1979, khi Cố Chủ tịch Tôn Đức Thắng công bố lệnh tổng động viên, Trung Quốc tuyên bố rút quân. Sau khi rút quân, giới lãnh đạo và truyền thông...