Chiến dịch hồi hương 8 triệu lính Đồng minh sau Thế chiến II
Phe Đồng minh đã huy động 370 tàu trong chiến dịch kéo dài 18 tháng để đưa 8 triệu binh sĩ trên khắp thế giới về quê hương sau khi Thế chiến II kết thúc.
Binh sĩ hồi hương trên tàu USS Saratoga. Ảnh: War History.
Sau khi Thế chiến II kết thúc, nhiệm vụ lớn nhất của quân Đồng minh là hồi hương hàng triệu binh lính dàn trải trên toàn cầu. Chiến dịch mang mật danh “Thảm ma thuật” là nỗ lực hồi hương những binh sĩ này, đòi hỏi việc lên kế hoạch không thua kém gì các trận đán.h trong suốt cuộc chiến, theo War History.
Từ năm 1943, Cơ quan Vận tải chiến tranh Mỹ (WSA) đã được giao nhiệm vụ lập kế hoạch cho chiến dịch “Thảm ma thuật”. Ngoài mục tiêu hồi hương khoảng 8 triệu binh sĩ phe Đồng minh nhanh nhất có thể, chiến dịch cũng nhằm mục đích đưa khoảng nửa triệu tù binh Đức và Italy trở lại châu Âu.
Tháng 12/1945, chiến dịch “Thảm ma thuật” bắt đầu với việc hồi hương quân nhân đóng tại Đông Nam Á và những vùng lãnh thổ trên Thái Bình Dương. 4 thiết giáp hạm cùng hai tàu sân bay khởi hành từ vịnh Tokyo để đón lính Mỹ thuộc Quân đoàn 10 trên đảo Okinawa.
Có tất cả 370 tàu tham gia chiến dịch, bao gồm tàu sân bay, thiết giáp hạm và khu trục hạm. Các tàu chở khách sang trọng như Queen Elizabeth và Queen Mary cũng được huy động cho nhiệm vụ chuyên chở binh lính. Chúng được biên chế từ đầu Thế chiến II, được sơn màu xám ngụy trang thay cho màu sắc sặc sỡ nguyên gốc.
Tàu khu trục và tàu sân bay được cải tiến để phù hợp với nhiệm vụ chuyển quân số lượng lớn. Đôi khi các binh sĩ bị nhồi nhét, ngủ trên những chiếc giường 5 tầng để tăng tối đa số người được trở về nhà. Đến tháng 9/1945, khoảng 2 triệu quân nhân Mỹ được cho giải ngũ, với hy vọng kịp về nhà đón Giáng sinh. Nhiệm vụ này không hề dễ dàng, liên tục bị cản trở bởi các trận bão lớn khiến tàu không thể ra khơi.
Trong 14 tháng diễn ra chiến dịch, trung bình mỗi tháng có 435.000 binh sĩ được đưa về nhà. Tàu sân bay USS Saratoga lập kỷ lục vận chuyển tổng cộng 29.204 binh sĩ, trong khi tàu sân bay HMS Glory thực hiện hành trình xa nhất, dài 9.656 km từ Manila, Philippines đến Vancouver, Canada.
Video đang HOT
Khi trở lại Mỹ, những người lính này tiếp tục gặp khó khăn trong hành trình trên đất liền. Hàng trăm nghìn binh sĩ phải ở tạm trong các trung tâm hồi hương dọc Bờ Tây trong lúc chờ quan chức xử lý giấy tờ phục viên.
Tình trạng kẹt xe xảy ra trên khắp nước Mỹ, trong khi tàu hỏa thường bị trễ từ 6-12 tiếng, đó là chưa kể việc không đủ tàu để đưa mọi quân nhân về nhà. Trong giai đoạn này, hành khách trên các chuyến tàu hỏa ở Mỹ phần lớn là binh sĩ giải ngũ.
Khu vực ngủ của các binh sĩ hồi hương trên tàu đổ bộ USS Wasp. Ảnh: Wikipedia.
Những binh sĩ không kịp trở về nhà được người dân sống gần trung tâm hồi hương giúp đỡ, mời ăn bữa cơm Giáng sinh. Những người khác đón Giáng sinh tại các trung tâm hồi hương hoặc ngay trên boong tàu tại cảng.
Hành trình về nhà của họ cũng nhận được sự hỗ trợ tối đa của người dân, khi hành khách thường nhường chỗ trên tàu cho các cựu binh. Do số binh sĩ vượt quá sức chở của tàu, tài xế xe tải và taxi địa phương đã tình nguyện đưa đón họ, dù điều này khiến chính các lái xe không kịp đón Giáng sinh bên gia đình.
Giai đoạn hồi hương binh sĩ ở châu Âu hoàn thành vào tháng 1/1946, nhưng chiến dịch hồi hương cuối cùng ở Thái Bình Dương chỉ kết thúc vào tháng 9/1946. Đây là chiến dịch quy mô lớn, được lên kế hoạch rất chu đáo và nhận được sự hỗ trợ nhiệt tình của người dân trong quá trình thực hiện, sử gia Elly Farely nhận định.
Duy Sơn
Theo VNE
Siêu tăng Nhật tự đào hố chôn mình trong Thế chiến II
Sở hữu hỏa lực rất mạnh, nhưng mẫu siêu tăng 100 tấn của Nhật lại quá nặng, liên tục bị lún và không thể di chuyển trên chiến trường.
Bản phục dựng siêu tăng 100 tấn của đế quốc Nhật. Ảnh: War History.
Trong Thế chiến II, các cường quốc đều chạy đua chế tạo những loại tăng siêu lớn, sở hữu hỏa lực vượt trội so với đối phương. Nhật Bản được cho là nước duy nhất không có ý định sản xuất phương tiện như vậy, nhưng các tài liệu được giải mật cho thấy họ từng chế tạo và thử nghiệm một siêu tăng có khối lượng tới 100 tấn, theo War History.
Tháng 8/1939, thất bại nặng nề trước Hồng quân Liên Xô trong trận đấu tăng lớn nhất ở Khalkhin Gol khiến đế quốc Nhật nhận ra rằng họ không chỉ phải tránh đối đầu với Liên Xô, mà còn phải sở hữu những chiếc xe tăng hạng nặng thay thế cho thay xe tăng hạng nhẹ Type-95 Ha-Go và tăng hạng trung Type-97 Chi-Ha để đối phó với Mỹ và quân Đồng minh.
Tới năm 1940, đại tá Hideo Iwakuro thuộc Bộ Chiến tranh Nhật Bản ra lệnh cho lực lượng kỹ thuật quân đội phát triển mẫu tăng có trọng lượng khoảng 26 tấn, gấp đôi tăng Type-95 Ha-Go.
Bản thử nghiệm đầu tiên ra đời cuối năm 1940 có trọng lượng lên tới 100 tấn, với kíp lái 11 người và sở hữu hỏa lực rất mạnh. Nó được trang bị pháo chính 105 mm với 100 viên đạn. Trước tháp pháo chính là hai tháp phụ gắn pháo 75 mm và một khẩu sún.g máy 7,7 mm.
Mặt trước xe tăng được bọc thép dày 75 mm, chưa kể tấm giáp phụ dày 75 mm được lắp riêng để tăng khả năng chống đạn. Mặt bên và sau đều có giáp dày 35 mm và cũng có thể lắp tấm giáp phụ dày 35 mm.
Người Nhật lựa chọn phương án xe tăng nhiều tháp pháo, trái với thiết kế thường gặp khi đó. Quân đội Anh và Liên Xô đều trải qua nhiều khó khăn với thiết kế này, thúc đẩy họ chế tạo xe tăng chỉ với một tháp pháo. Tuy nhiên, quân đội Nhật có vẻ ưu ái mẫu tăng hạng nặng với nhiều tháp pháo.
Tuy nhiên chiếc siêu tăng 100 tấn này lại trở thành thảm họa ngay từ quá trình thử nghiệm. Ngay sau khi rời khỏi nền bê tông, chiếc xe đã bị lún tới hơn 1 m dưới bề mặt đất ẩm ướt và mềm ở khu thử nghiệm, khiến nó tự đào hố chôn mình mỗi khi chuyển hướng. Các bánh chịu nặng cũng liên tục bị trượt khỏi xích xe.
Khi chạy trên đường bê tông, trọng lượng chiếc xe quá lớn khiến nhiều mảnh xích xe bị xé toạc, bánh chịu nặng tiếp tục trượt ra và cày nát mặt đường. Khối lượng tới 100 tấn vượt quá khả năng chịu của hệ thống treo nên việc di chuyển trên địa hình không bằng phẳng, yêu cầu tối thiểu của một xe tăng, không thể thực hiện được.
Chứng kiến thảm họa này, quân đội Nhật quyết định đắp chiếu chiếc xe tăng, bản thiết kế của nó bị phá hủy hoặc mất tích. Bản mẫu thử nghiệm rơi vào quên lãng, sau đó bị tháo dỡ.
Bản thiết kế siêu tăng 150 tấn do quân đội Nhật đặt hàng trong Thế chiến II. Ảnh: Asahi.
Sau này, người Nhật lại có ý định phát triển mẫu tăng siêu nặng dựa trên ý tưởng từ xe tăng Maus của Đức. Quân đội Nhật yêu cầu tập đoàn Mitsubishi Heavy Industries thiết kế phiên bản tương tự mang tên "O-I" vào năm 1944.
O-I dài 10 m, rộng 4,2 m và cao 4 m. Nó gồm tháp pháo chính trang bị pháo 105 mm, được lấy từ các khẩu pháo chiến trường của Nhật, cùng một tháp pháo phụ gắn hỏa lực cỡ nhỏ hơn. Mặt trước xe và tháp pháo được bọc giáp dày 200 mm, trong khi phía sau có lớp giáp 150 mm và mặt bên dày 110 mm.
Xe O-I có hình dáng khối hộp, sử dụng hai động cơ xăng V-12 được gắn phía sau. Nó có khối lượng dự kiến tới 120 tấn, chạy trên xích rộng 750 mm với 8 bánh chịu nặng mỗi bên.
Hiệu quả thực sự của O-I không được kiểm chứng, nhưng các chuyên gia quân sự đều cho rằng nó sẽ trở thành một mục tiêu cố định trên chiến trường. Trọng lượng lớn khiến nó không thể tự xoay xở, trong khi việc thiếu sự bảo vệ từ xe tăng hạng nhẹ hay bộ binh khiến nó dễ dàng bị thọc sườn và bọc hậu, hoặc phá hủy bởi máy bay cường kích. Quá trình phát triển O-I bị hủy bỏ vào năm 1945, trước khi thiết kế mẫu tăng này được hoàn thiện.
Tử Quỳnh
Theo VNE
'Bóng ma hạm đội' - trinh sát cơ kỳ quái nhất Thế chiến II Những chiếc trinh sát cơ có hình dáng khác thường trong dự án "Bóng ma hạm đội" được hải quân Anh phát triển để đối phó với tàu chiến đối phương. Một chiếc Fleet Shadower khi hoàn tất chế tạo. Ảnh: War is Boring. Trong giai đoạn trước Thế chiến II, hải quân Anh vẫn dựa chủ yếu vào thiết giáp hạm. Để...