Chiêm ngưỡng 16 bảo vật quốc gia lần đầu ra mắt công chúng
Lần đầu tiên Bảo tàng Lịch sử Quốc gia trưng bày 16 bảo vật quốc gia đang lưu giữ tại đây. Đây là các bảo vật có giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa, gắn liền với quá trình hình thành quốc gia, dân tộc xuyên suốt chiều dài lịch sử hàng nghìn năm kể từ thời kỳ văn hoá Đông Sơn.
Trống đồng Ngọc Lũ được đặt trang trọng tại phòng trưng bày chuyên đề của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. Trống được chế tác bằng đồng, thuộc thời kỳ văn hóa Đông Sơn cách đây khoảng 2000 – 2500 năm.
Trống được phát hiện tại xã Như Trác, huyện Lý Nhân, sau được chuyển về thờ tại đình làng Ngọc Lũ, Hà Nam. Đây là chiếc trống đẹp nhất, nguyên vẹn nhất và có hình dáng cân đối, hài hòa nhất trong các trống đồng Đông Sơn từng được phát hiện.
Cây đèn hình người quỳ bằng đồng, thuộc thời kỳ văn hóa Đông Sơn. Đèn thể hiện theo hình tượng một người đàn ông mình trần đóng khố tư thế đang quỳ, hai tay nâng đĩa đèn. Đây là hiện vật độc bản, đại diện cho nghệ thuật cổ tiêu biểu, độc đáo vào thời kỳ cuối văn hóa Đông Sơn.
Tập thờ Ngục trung nhật ký (Nhật ký trong tù). Tác phẩm gồm 133 bài thơ do Hồ Chí Minh sáng tác trong thời gian bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam ở Quảng Tây (Trung Quốc), năm 1942 – 1943. Xuyên suốt “Nhật ký trong tù” là hình ảnh “đại trí, đại nhân, đại dũng” của người tù cộng sản Hồ Chí Minh, luôn tràn đầy tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường và một quyết tâm cao độ đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc.
Mộ thuyền Việt Khê, thuộc văn hóa Đông Sơn. Đây là loại quan tài bằng thân cây khoét rỗng, còn được gọi là mộ thuyền, có kích thước lớn nhất trong số những ngôi mộ có quan tài bằng thân cây khoét rỗng đã phát hiện ở Việt Nam. Bên trong mộ chứa 109 đồ tùy táng gồm chủ yếu là đồ đồng, bao gồm các loại hình vũ khí, nhạc khí, công cụ lao động và đồ dùng sinh hoạt.
Trống đồng Cảnh Thịnh, thời Tây sơn, niên hiệu Cảnh Thịnh (năm 1800). Trống đồng Cảnh Thịnh là hiện vật độc bản trong phức hợp trống đồng Việt Nam, có tạo hình thể hiện sự độc đáo khi mô phỏng theo kiểu trống da truyền thống. Hoa văn trang trí chính được đúc nổi đề tài Tứ linh, mang ý nghĩa biểu trưng cho đất nước thái bình thịnh trị, xã hội an lạc qua hình ảnh Long Mã cõng Hà đồ, Thần Quy chở Lạc thư. Trống có hai biểu tượng khởi nguyên của Kinh Dịch – tư tưởng triết học của người Á Đông về quy luật của sự biến đổi.
Một giá trị đặc biệt khác của trống đồng Cảnh Thịnh là phần tư liệu. Các dòng lạc khoản khắc trên thân cho biết trống được đúc vào tháng 4 nhuận năm Cảnh Thịnh thứ 8 thời Tây Sơn (1800), tại Chùa Cả (Linh Ứng tự), tức Chùa Nành, xã Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội ngày nay.
Sách “Đường Kách mệnh” của Nguyễn Ái Quốc. Tác phẩm là tập hợp những bài giảng của đồng chí Nguyễn Ái Quốc trong thời gian hoạt động cách mạng ở Quảng Châu (Trung Quốc) những năm 1925 – 1927, do Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông ấn hành bí mật và chuyển về nước.
Thạp đồng Đào Thịnh, làm bằng chất liệu đồng, thuộc văn hóa Đông Sơn, cách đây khoảng 2000 – 2500 năm. Trong văn hóa Đông Sơn, thạp đồng là di vật tiêu biểu sau trống đồng và chủ yếu chỉ xuất hiện trong phạm vi phân bố của nền văn hóa này. Trong hàng trăm chiếc thạp đã phát hiện thì thạp Đào Thịnh là chiếc thạp có kích thước lớn nhất, hoa văn trang trí phong phú, chặt chẽ, tinh mỹ và độc đáo nhất.
Đặc biệt trên nắp thạp có gắn đối xứng tâm 4 khối tượng nam nữ đang giao hoan, loại tượng mới gặp duy nhất trong nghệ thuật Đông Sơn. Bộ phận sinh dục của người đàn ông được nhấn mạnh bằng cách phóng đại so với tỷ lệ cơ thể, phản ánh tín ngưỡng phồn thực với khát vọng vạn vật sinh sôi nẩy nở của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước.
Video đang HOT
Ấn “Sắc mệnh chi bảo”, chất liệu vàng, thời Nguyễn, năm Minh Mệnh thứ 8 (1827). Ấn có núm hình rồng cuốn, lưng ấn khắc 2 dòng chữ Hán: Thập tuế hoàng kim, trọng nhị bách nhị thập tam lượng lục tiền. Ấn được đúc bằng vàng 10 tuổi, nặng 223 lạng 6 tiền (khoảng 8,3kg).
Ấn “Môn hạ sảnh ấn”, chất liệu đồng, thời Trần, niên hiệu Long Khánh thứ 5 (1377). Ấn được phát hiện năm 1962 tại xã Hương Giang, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Ấn hình vuông, đế ấn tạo ba cấp, núm ấn hình bia đá, đúc 4 chữ kiểu triện. Ấn được đúc vào ngày 23 tháng 5, niên hiệu Long Khánh 5, đời vua Trần Duệ Tông (1372 – 1377).
Bản thảo “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hiện vật có giá trị đặc biệt, liên quan đến sự kiện trọng đại của đất nước, gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” không chỉ có ý nghĩa lớn lao về lịch sử, mà còn mang tính nhân văn, giàu giá trị về ngôn ngữ tiếng Việt. Với hai trang viết giản dị, dễ hiểu, tinh tế nhưng hào hùng, hừng hực khí thế xung thiên, lời kêu gọi đã diễn tả được những tư tưởng, ý chí, tình cảm của cả dân tộc Việt Nam khi bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp.
Trống đồng Hoàng Hạ, thuộc Văn hóa Đông Sơn, cách ngày nay khoảng 2000 – 2500 năm. Trống được phát hiện tại xóm Nội Thôn, làng Hoàng Hạ, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Sơn Bình (nay thuộc Hà Nội).
Trống đồng Hoàng Hạ là loại trống H1 điển hình, kiểu dáng, đề tài hoa văn trang trí độc đáo còn khá nguyên vẹn. Trống đồng Hoàng Hạ có kích thước lớn là một tiêu bản đặc biệt được xếp vào cùng nhóm trống đồng Ngọc Lũ, nhóm trống đặc trưng tiêu biểu nhất.
Chuông chùa Vân Bản, chất liệu đồng, thời Trần, thế kỷ 13 – 14. Đây cà chuông cổ nhất, có kích thước lớn nhất, uy nghi nhất của nền văn minh Đại Việt. Thân chuông chia thành 8 ô ngăn cách bởi các đường gờ nổi. Miệng chuông đúc nổi băng cánh sen kép. Chuông có 6 núm gõ hình hoa sen nở mãn khai.
Quai chuông chùa Vân Bản gắn Bồ Lao hình rồng 2 đầu. Trên thân chuông khắc minh văn chữ Hán nói về những người có công khai phá sơn lâm, mở mang đất đai lập dựng chùa Vân Bản, người cúng dường đất cho chùa. Đặc biệt, minh văn cho biết lai lịch chuông do vị quan Tả bộc xạ cúng tiến vào chùa.
Tượng đồng hai người cõng nhau thổi khèn, thuộc văn hóa Đông Sơn, cách ngày nay khoảng 2000 – 2500 năm. Là pho tượng sinh động nhất trong hệ thống tượng tròn Đông Sơn. Tượng miêu tả hai người đàn ông đóng khố, đầu chít khăn, đeo khuyên tai lớn chạm vai. Người cõng trong tư thế khom lưng, hai tay vòng ra sau ôm đỡ người ngồi trên lưng, hai chân như đang nhún nhảy theo điệu nhạc. Pho tượng không chỉ là bằng chứng về một loại hình âm nhạc truyền thống dân tộc đã được khởi nguồn từ văn hóa Đông Sơn mà còn phản ảnh đời sống tinh thần phong phú, sự lạc quan, yêu đời cũng như trình độ đúc đồng đỉnh cao của người Việt cổ.
Bình gốm hoa lam vẽ thiên nga, thời Lê sơ, thế kỷ 15. Đây là chiếc bình có kích thước lớn nhất, nguyên vẹn nhất trong sưu tập hiện vật độc bản khai quật từ tàu đắm Cù Lao Chàm, Hội An. Bình có dáng cao, vai phình, thân thuôn nhỏ về đáy tạo nên sự thon thả, thanh thoát. Băng hoa văn chủ đạo chiếm không gian lớn nhất ở giữa thân bình vẽ phong cảnh với 4 con thiên nga theo tích “Phi, Minh, Túc, Thực”: một con đang dang cánh bay, một con đang nghển cổ kêu, một con đang rúc đầu vào cánh ngủ và con còn lại đang kiếm ăn.
Bia điện Nam Giao, chất liệu đá, thời Lê Trung hưng, năm Vĩnh Trị 4 (1679). Mặt bia khắc bài ký về việc chỉnh đốn, sửa chữa Điện Nam Giao Chiêu sự. Bia điện Nam giao là một trong những di vật có giá trị nhất còn sót lại của Đàn Nam Giao Thăng Long. Phản ảnh rõ nét ý nghĩa lịch sử điện Nam Giao và lễ tế Nam Giao ở Thăng Long, nghi lễ lớn nhất của các vương triều Lý – Trần – Lê để tế Trời – Đất cầu mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an.
Bia Võ Cạnh, chất liệu đá cát, thuộc văn hóa Chămpa, thế kỷ 3 – 4. Đây là một trong những tấm bia cổ nhất Đông Nam Á. Bia là khối đá có hình trụ đứng. Trên 3 mặt khắc chữ Sanskrit. Đây là tấm bia cổ nhất còn lại của Vương quốc cổ Champa. Bia được khắc bằng chữ Phạn cổ cho biết nhiều thông tin có giá trị về lịch sử Vương triều Tiền vương quốc Nam Chăm. Minh văn còn cho biết sự du nhập và ảnh hưởng mạnh mẽ của Phật giáo vào Chămpa từ sớm.
Hữu Nghị
Theo Dantri
Lần đầu tiên trưng bày 16 bảo vật quốc gia
Mộ thuyền nguyên vẹn nhất thể hiện một hình thức an táng của người Việt cổ, chiếc ấn đồng có niên đại cụ thể nhất liên quan đến lịch sử hành chính trung ương triều Trần... là những bảo vật quốc gia đang được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia.
Sáng 10/1, Bảo tàng Lịch sử quốc gia lần đầu tiên trưng bày 16 bảo vật quốc gia đang lưu giữ. Các bảo vật gắn liền với quá trình hình thành quốc gia, dân tộc, từ thời kỳ văn hóa Đông Sơn cách đây hàng nghìn năm đến thời quân chủ chuyên chế, các triều đại phong kiến, có hiện vật gắn liền với sự đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trống đồng Hoàng Hạ, một trong những chiếc trống đẹp nhất của nền văn hóa Đông Sơn. Năm 1937, trống được phát hiện khi đào mương tại thôn Hoàng Hạ, huyện Phú Xuyên (Hà Nội). Mặt trống trang trí hình mặt trời 16 tia, giữa các tia trang trí hoa văn lông đuôi chim công, cảnh sinh hoạt, chèo thuyền, xử tử tù binh... Cùng với nhóm trống Ngọc Lũ, Sông Đà, Cổ Loa, trống đồng Hoàng Hạ phản ánh đời sống vật chất, tinh thần phong phú của cư dân Đông Sơn, thể hiện đỉnh cao nghệ thuật đúc đồng thời dựng nước đầu tiên của dân tộc.
Thạp đồng Đào Thịnh - chiếc thạp lớn nhất hoa văn trang trí phong phú, chặt chẽ, tinh mỹ và độc đáo nhất trong hàng trăm chiếc thạp được phát hiện. Trong văn hóa Đông Sơn, thạp đồng là di vật tiêu biểu sau trống đồng. Trên nắp thạp có gắn đối xứng tâm 4 khối tượng nam nữ đang giao hoan, loại tượng gặp duy nhất trong nghệ thuật Đông Sơn, phản ảnh tín ngưỡng phồn thực với khát vọng vạn vật sinh sôi nẩy nở của cư dân trồng lúa nước. Việc người nam đeo dao găm ngay cả trong lúc sinh hoạt tình dục cho thấy vũ khí luôn thường trực bên người, phản ảnh trong văn hóa Đông Sơn đã phát sinh xung đột xã hội dẫn tới chiến tranh, là tiền đề hình thành các thủ lĩnh quân sự, tạo nên một trong những cơ sở vật chất hình thành nhà nước sơ khai Văn Lang - Âu Lạc sau này.
Tượng hai người đàn ông cõng nhau thổi khèn là pho tượng sinh động nhất trong hệ thống tượng tròn Đông Sơn. Tượng miêu tả hai người đàn ông đóng khố, đầu chít khăn, đeo khuyên tai lớn chạm vai. Người cõng trong tư thế khom lưng, hai tay vòng ra sau ôm đỡ người ngồi trên lưng, hai chân như đang nhún nhảy theo điệu nhạc. Người được cõng đang say sưa thổi khèn. Tượng được thể hiện theo khối thủng, có nhiều góc cạnh và nhiều đường cong lượn, đòi hỏi kỹ thuật khuôn đúc phức tạp. Pho tượng là bằng chứng về loại hình âm nhạc truyền thống dân tộc được khởi nguồn từ văn hóa Đông Sơn, phản ảnh đời sống tinh thần phong phú, sự lạc quan, yêu đời cũng như trình độ đúc đồng đỉnh cao của người Việt cổ.
Cây đèn hình người quỳ bằng đồng, thuộc nền văn hóa Đông Sơn, cách ngày nay khoảng 2000-2500 năm. Cây đèn thể hiện hình tượng người đàn ông mình trần đóng khố tư thế đang quỳ, hai tay nâng đĩa đèn. Tượng có khuôn mặt bầu, mắt mở to, miệng hơi mỉm cười, quanh môi có ria mép. Đầu tượng được gắn vương miện, tóc để chỏm. Hai vai và sau tượng gắn 3 cành chữ S, mỗi cành chữ S đỡ một đĩa đèn và gắn một hình người đang quỳ. Trên hai đùi và đằng sau người đàn ông có 4 nhạc công cũng ở tư thế quỳ, hai nhạc công đang thổi sáo. Cánh tay, cổ tay có đeo trang sức, tai đeo hoa hình khuyên to tròn. Cây đèn là hiện vật độc bản, đại diện cho nghệ thuật cổ tiêu biểu vào thời kỳ cuối văn hóa Đông Sơn, có sự giao lưu với văn hóa Hán.
Mộ thuyền Việt Khê có kích thước lớn nhất, hiện trạng nguyên vẹn nhất chứa đựng nhiều đồ tùy táng quý hiếm của văn hóa Đông Sơn, niên đại 2.000-2.500 năm trước. Đây là loại quan tài bằng thân cây khoét rỗng, còn gọi là mộ thuyền đã phát hiện ở Việt Nam. Mộ chứa 109 đồ tùy táng gồm chủ yếu là các loại vũ khí, nhạc khí, công cụ lao động và đồ dùng sinh hoạt bằng đồng. Mộ thuyền được công nhận là bảo vật quốc gia năm 2013.
Bia Võ Cạnh - tấm bia cổ nhất Đông Nam Á là khối đá có hình trụ đứng, trên 3 mặt khắc chữ Sanskrit. Đây là tấm bia cổ nhất còn lại của vương quốc cổ Champa. Bia khắc chữ Phạn cổ cho biết nhiều thông tin giá trị về lịch sử vương triều tiền vương quốc Nam Chăm.
Chuông chùa Vân Bản là chiếc chuông cổ nhất, lớn nhất, uy nghi nhất của nền văn minh Đại Việt, có niên đại thế kỷ 13-14 dưới thời Trần.
Trên thân chuông khắc chữ Hán nói về những người có công khai phá sơn lâm, mở mang đất đai lập dựng chùa Vân Bản. Chuông là nguồn tài liệu quý để nghiên cứu lịch sử, văn hóa Phật giáo Việt Nam nói chung, thời Trần nói riêng.
Môn hạ sảnh ấn - chiếc ấn đồng có nội dung rõ ràng nhất, niên đại cụ thể nhất liên quan đến lịch sử hành chính trung ương triều Trần. Ấn được đúc dưới thời Trần, niên hiệu Long Khánh thứ 5 (1377), được phát hiện năm 1962 tại xã Hương Giang (Hương Khê, Hà Tĩnh). Sảnh Môn hạ là một trong những cơ quan hành chính trung ương cao nhất thời Trần, do vua Trần Minh Tông đặt ra. Cơ quan này thân cận nhà vua, có nhiệm vụ giữ bảo ấn, truyền lệnh của vua tới các quan, nhận lời tấu lên vua và các công việc lễ nghi trong cung. Chức quan ở sảnh này đều do các quan đại thần đảm nhiệm. "Môn hạ sảnh ấn" được dùng để đóng trên những văn bản hành chính quan trọng của triều đình, từ đời vua Trần Phế Đế (trị vì 1377-1388) về sau. Cho tới nay, những phát hiện về ấn đồng các triều đại phong kiến Việt Nam không nhiều.
Bình vẽ thiên nga có từ thời Lê sơ (thế kỷ XV) có kích thước lớn nhất, nguyên vẹn nhất trong sưu tập hiện vật độc bản khai quật từ tàu đắm Cù Lao Chàm, thành phố Hội An, Quảng Nam. Bình dáng cao, vai phình, thân thuôn nhỏ. Hoa văn trang trí chia thành 7 băng phủ kín thân từ miệng xuống đáy. Băng hoa văn chủ đạo chiếm không gian lớn nhất ở giữa thân bình vẽ phong cảnh với 4 con thiên nga theo tích Phi, Minh, Túc, Thực: một con đang dang cánh bay, một con đang nghển cổ kêu, một con đang rúc đầu vào cánh ngủ và con còn lại đang kiếm ăn. Đây là cách chơi chữ và mượn hình biểu ý của người xưa nhằm gửi gắm ước nguyện được thăng tiến, tiền đồ xán lạn, giàu có, no đủ. Thời Lê sơ là giai đoạn phát triển huy hoàng của nghệ thuật gốm sứ cổ Việt Nam.
Chiếc thống gốm hoa nâu kích thước lớn, men phủ đều, là tác phẩm nghệ thuật hoàn hảo nhất trong những đồ gốm hoa nâu thời Trần được phát hiện. Chiếc thống được cho là vật dụng của hoàng tộc triều Trần, được phát hiện khi đào giếng tại khu đền Trần, thôn Tức Mặc, phường Lộc Vượng (TP Nam Định) năm 1972. Khu vực phát hiện thuộc hành cung Thiên Trường, một trong những vùng đất phát tích và là kinh đô thứ hai của nhà Trần, nơi các Thái thượng hoàng lui về ở sau khi truyền ngôi.
Bia điện Nam Giao, một trong những di vật giá trị nhất sót lại của Đàn Nam Giao. Tấm bia phản ảnh rõ nét ý nghĩa lịch sử điện Nam Giao và lễ tế Nam Giao ở kinh thành Thăng Long, nghi lễ lớn nhất của các vương triều Lý - Trần - Lê để tế trời đất, cầu mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an. Bia có niên đại từ thời Lê Trung hưng, năm Vĩnh Trị thứ 4 (1679).
Trống đồng Cảnh Thịnh được đúc năm 1800 dưới thời Tây Sơn. Đây là hiện vật độc bản trong phức hợp trống đồng Việt Nam. Hoa văn trang trí chính đúc nổi đề tài tứ linh mang ý nghĩa biểu trưng đất nước thái bình thịnh trị, xã hội an lạc. Giá trị đặc biệt khác của trống Cảnh Thịnh chính là phần tư liệu. Bài minh văn dài 222 chữ dẫn thuyết lý do, mục đích đúc trống, nói về người trong xã là bà Nguyễn Thị Lộc, vợ của Tổng Thái giám Giao quận công vào năm Vĩnh Hựu thứ 2 đời vua Lê Ý Tông (1736) đã tập phúc góp công dựng chùa Linh Ứng.
Ấn vàng Đại Việt quốc Nguyễn Chúa vĩnh trấn chi bảo do chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) cho đúc làm quốc bảo năm 1709. Thời vua Gia Long lên ngôi, bảo ấn được chọn làm báu vật truyền ngôi của vương triều Nguyễn.
Chiếc ấn vàng Sắc mệnh chi bảo nặng 8,3 kg, đúc vào năm 1827 dưới thời vua Minh Mệnh. Ấn có núm hình rồng cuốn, mặt ấn đúc nổi 4 chữ triện Sắc mệnh chi bảo. Ấn dùng để ban cấp cáo sắc cho văn võ cùng phong tặng thần và người. Đây la hiên vât độc bản, biểu trưng cho quyền lực nhà Nguyễn, có giá trị đặc biệt trong sưu tập kim bảo triều Nguyễn.
Tập thơ Nhật ký trong tù gồm 133 bài thơ chữ Hán do Hồ Chí Minh sáng tác trong thời gian bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam ở Quảng Tây (Trung Quốc), 1942-1943.
Đường Kách mệnh tập hợp những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc trong thời gian hoạt động cách mạng ở Quảng Châu (Trung Quốc) những năm 1925-1927, do Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông ấn hành bí mật và chuyển về nước. Đây được coi là văn kiện lý luận chính trị đầu tiên của Đảng, đặt cơ sở tư tưởng cho đường lối của cách mạng Việt Nam.
Cuộc trưng bày sẽ kéo dài đến tháng 5/2017.
Ngọc Thành - Hoàng Phương
Theo VNE
Chiếc trống có chữ khắc duy nhất trong thành Cổ Loa Mặt trong chân trống Cổ Loa có khắc chìm dòng chữ Hán, được dịch là 'Trống thứ 48 của bộ Tây Vu, nặng hai trăm tám mươi mốt cân'. Trong số bảo vật quốc gia Bảo tàng Hà Nội đang lưu giữ, trống Cổ Loa thuộc hàng quý hiếm bởi kích thước lớn, hoa văn trang trí trên mặt và thân cầu kỳ....