Chiếc smartwatch của năm 1981 và những dự đoán… sai lệch về công nghệ tương lai
Vào thập niên 1980, tạp chí Byte là tờ báo mơ ước của giới “sành công nghệ”. 30 năm sau, trong thời đại smartwatch bùng nổ, một bức ảnh trên bìa của tờ Byte tháng 4/1981 trở thành một kiệt tác nghệ thuật cho thấy khả năng dự đoán về công nghệ rất… kém cỏi của con người.
Những người ưa thích công nghệ vi tính từ thập niên 1970, 1980 chắc chắn sẽ không thể quên được các bức tranh rất ấn tượng của họa sĩ Robert Tinney trên bìa tờ Byte. Tất cả các tác phẩm của Tinney đều mang đậm tính tưởng tượng, tuyệt đẹp và đôi khi rất hài hước. Thực tế, khi thay thế các bức vẽ của Tinney bằng các bức ảnh chụp máy tính “thông thường”, tờ Byte đã mất đi một phần tâm hồn rất “riêng” của mình.
Trong một lần lướt trên Internet, biên tập viên Harry McCracken đã vô tình tìm ra cuốn bìa của tờ Byte phát hành vào tháng 4/1981. Bức ảnh này sau đó đã được chia sẻ lên Twitter và nhận được hàng nghìn lượt thích, chia sẻ.
Dĩ nhiên, đây là một bức ảnh mang tính chất hài hước. Trong năm 2014, ý tưởng rằng một thiết bị điện toán đeo tay có cả ổ đĩa mềm (floppy), bàn phím QWERTY đầy đủ và màn hình văn bản bé tí xíu là một ý tưởng rất buồn cười. Trong năm 1981, ý tưởng này cũng chỉ là một trò đùa của Byte và Tinney: các biên tập viên của tờ tạp chí này vào thời điểm đó đã chỉ ra rất rõ ràng rằng không phải vô cớ mà chiếc đồng hồ “siêu thông minh” kia lại được chọn làm bìa cho một tập tạp chí phát hành vào tháng 4 (ám chỉ tới ngày Cá tháng Tư 1/4).
Song, 33 năm sau, bức tranh hài hước này vẫn có thể mang tới những cảm xúc công nghệ rất đặc biệt.
Trước hết, bức tranh này cho chúng ta thấy rằng smartwatch không phải là ý tưởng của thập niên 2010. Ngay từ năm 1981, các công ty công nghệ đã cố gắng tạo ra những chiếc đồng hồ thông minh đầu tiên: bức tranh của Tinney thực ra đã được xây dựng dựa trên ý tưởng của những sản phẩm thật. Trong số này có thể kể tới chiếc HP-01, một “trợ lý thông tin cá nhân” ra mắt vào năm 1977.
HP-01
Đến thế kỷ 21, thị trường smartwatch đã tiến những bước rất dài. Song, “bài toán smartwatch” vẫn chưa được giải một cách triệt để: nhiều người vẫn không cần sử dụng tới đồng hồ thông minh trong cuộc sống hàng ngày. Bạn có thể hình dung ra bất kì một chiếc “máy tính viễn tưởng” nào và đặt nó lên một chiếc smartwatch. Đó chính là điều Tinney đã làm vào năm 1981.
Điều kì lạ thứ hai mà bạn có thể nhận thấy là dù công nghệ đã phát triển theo cấp số mũ trong vòng 33 năm vừa qua, những chiếc smartwatch hiện đại vẫn có rất vấn đề chung với ý tưởng của Tinney từ những năm 1980. Các mẫu đồng hồ thông minh hiện tại vẫn chưa có công nghệ màn hình tối ưu, chưa thể nhập liệu và lưu trữ dữ liệu dễ dàng như mong muốn. Ngay cả Pebble Steel, một trong những mẫu smartwatch tốt nhất trên thị trường hiện nay, vẫn có thiết kế quá giống với chiếc đồng hồ thông minh của Tinney (chỉ thiếu bàn phím QWERTY).
Cuối cùng và quan trọng nhất, chiếc smartwatch của Tinney là một ví dụ rất trực quan cho thấy vì sao (phần lớn) chúng ta đều rất kém cỏi trong việc dự đoán các công nghệ của tương lai. Chúng ta thường tưởng tượng ra rằng các sản phẩm tương lai sẽ rất giống với các sản phẩm hiện tại đang có mặt trên thị trường – những sản phẩm mà chúng ta biết rất rõ. Chúng ta đem chắp vá các ý tưởng lại với nhau, mang một ý tưởng rất hay lên một sản phẩm không-phù-hợp. Nói tóm lại, “giấc mơ” về các sản phẩm mới của phần lớn mọi người đều không đủ lớn.
Ví dụ điển hình cho nhận định này là chiếc iPhone đã khởi đầu cho trào lưu smartphone màn hình cảm ứng. Khi thông tin về việc Apple chắc chắn sẽ ra mắt một chiếc “iPhone” xuất hiện, Internet nhanh chóng xuất hiện các ý tưởng kì cục mô tả chiếc iPhone của tương lai. Các nhà thiết kế của Internet dựng ra những chiếc iPhone có hình dạng giống như điện thoại nắp gập, hoặc thậm chí là những chiếc iPod có hàng phím số rất lớn.
Số lượng các bản thiết kế ý tưởng của chiếc iPhone vào thời điểm đó là rất nhiều, nhưng chẳng ai hình dung ra được chiếc iPhone mà Steve Jobs đã dùng để thay đổi thế giới cả.
Cần phải nhắc lại rằng bức tranh mà Tinney dùng làm bìa tờ Byte vào năm 1981 là một bức tranh biếm họa hài hước. Song, sự thật là một nhà “tiên tri công nghệ” vào thời điểm đó có lẽ cũng sẽ hình dung ra một chiếc smartwatch tương tự một cách hoàn toàn nghiêm túc. Đây là chiếc PC của thập niên 1981, được thu nhỏ vào một chiếc đồng hồ đeo tay.
3 thập niên trước, bất kì ai nói đến dung lượng lưu trữ hàng gigabyte, các màn hình cảm ứng độ phân giải siêu cao, khả năng kết nối với bất kì một thiết bị điện toán nào trên toàn cầu hoặc các thiết bị cá nhân có thể vừa chụp ảnh, vừa nghe nhạc đều sẽ bị coi là một kẻ quá “mê mẩn” khoa học viễn tưởng. Ngay cả các đơn vị nghiên cứu nổi tiếng là sáng tạo như Trung tâm Nghiên cứu Palo Alto của Xerox vào thời điểm đó có lẽ cũng khó có thể hình dung ra được rằng các giao diện đồ họa hiện đại do họ khởi xướng sẽ được tích hợp vào những chiếc đồng hồ như Pebble hay Moto 360.
Video đang HOT
Đến ngày hôm nay, suy nghĩ về smartwatch của chúng ta bị bó buộc trong giới hạn rằng smartwatch sẽ là smartphone thu nhỏ. Đó là tất cả những gì chúng ta có thể nghĩ đến và cũng là giới hạn cho tất cả các sản phẩm smartwatch có mặt trên thị trường, từ Pebble cho tới Glaxy Gear. Song, bài học của quá khứ chỉ ra rằng: sự khác biệt giữa một chiếc đồng hồ thông minh “có thể thay đổi thế giới” (cho đến giờ vẫn chưa xuất hiện) so với một chiếc smartphone của năm 2014 có lẽ sẽ không hề nhỏ bé hơn sự khác biệt của chiếc iPhone so với chiếc máy tính cá nhân của năm 1981.
Theo Time
Những chất liệu thần kỳ
Vạn vật trên Trái đất đều tuân theo những quy luật vật lí nhất định và bất biến, như nóng lên rồi cháy khi gặp nhiệt độ cao, lạnh hoặc đóng băng khi nhiệt độ xuống thấp, hay vật rắn khi đã vỡ thì không thể tự nhiên lành,...
Tuy nhiên bằng sự kì diệu của khoa học công nghệ, các nhà khoa học đã tìm ra những siêu vật liệu đi ngược lại quy luật vật lí - những vật liệu của tương lai.
1. Lớp phủ siêu trơn LiquiGlide
Hãy thử tưởng tượng trong bữa ăn, bạn muốn dùng tương ớt hoặc tương cà chua, nhưng thật khó khăn biết bao khi phải cố gắng dốc chai tương đã gần hết? Sự bất tiện này trong tương lai sẽ biến mất, nhờ vào phát minh mới của những nhà nghiên cứu thuộc học viện Công nghệ thông tin Massachusetts (MIT) - lớp phủ LiquiGlide.
LiquiGlide là một lớp phủ siêu trơn, ngăn không cho bất kì thứ gì dính lên nó. Hãy thử khám phá công dụng của LiquiGlide qua hai thí nghiệm với sốt cà chua và mayonnaise dưới đây:
Phát minh này đã được rất nhiều công ty thực phẩm quan tâm, vì không những làm tăng được sự tiện lợi trong cuộc sống mà lượng thực phẩm đóng chai lãng phí cũng giảm đi rất nhiều.
Ngoài ra, các chai nhựa thông thường cần thiết kế nắp lớn hơn nhằm dễ dàng lấy các loại sauce có tính dính thì nay đã có thể thu nhỏ, tiết kiệm ước tính hơn 25.000 tấn nhựa mỗi năm.
LiquiGlide cũng vượt qua mọi bài kiểm tra về an toàn thực phẩm, thậm chí có thể... ăn được. Nhưng không chỉ vậy, phát minh này còn mở ra nhiều tính ứng dụng hơn thế, như trong các đường ống vận chuyển dầu khí, thậm chí cả những vật dụng thường ngày như bát đĩa, sơn tường... Khi đó, một viễn cảnh tuyệt diệu khi loài người... không cần rửa bát hoàn toàn có thể xảy ra.
2. Pin xịt (Spray-on Batteries)
Trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay, có lẽ "thảm họa" nhất là điện thoại, laptop hay máy tính bảng... hết pin mà không có nguồn điện để sạc. Ngoài ra, việc pin điện thoại ngày nay quá "mỏng manh" (hết pin rất nhanh) đem lại khá nhiều bất tiện trong cuộc sống.
Tuy nhiên, các khoa học gia đã đề ra giải pháp thay thế toàn bộ pin truyền thống bằng hợp chất tương tự như pin, nhưng dưới dạng xịt và có thể sử dụng trên mọi mặt phẳng.
Pin thông thường được cấu tạo bởi cực âm, cực dương và chất điện giải. Những nhà nghiên cứu tại ĐH Rice (Mỹ) đang nghiên cứu biến cấu tạo này thành dạng xịt bằng cách hóa lỏng từng thành phần.
Sau khi xịt lên một bề mặt, ngay lập tức bề mặt đó sẽ cung cấp năng lượng cho thiết bị điện tử hoạt động. Hiện nay, pin xịt đã có thể khiến 40 bóng đèn LED sáng liên tục trong 6 giờ đồng hồ.
Tuy nhiên, để pin xịt có thể trở thành nguồn năng lượng cung cấp cho laptop, máy tính bảng,... cần một chặng đường xa hơn thế bởi giá thành đầu tư khá lớn cùng hiệu năng chưa cao.
Nhưng dù sao, nếu pin xịt thành công, điều này đồng nghĩa với việc mở ra một hướng đi mới cho ngành công nghiệp điện tử. Biết đâu tương lai sẽ xuất hiện điện thoại siêu mỏng và chỉ cần phủ một lớp pin xịt bên trong.
3. Chất dẻo tự liền Terminator polymer
Trong series phim "Kẻ hủy diệt"- the terminator, robot T-1000 trong phim có thể tự phục hồi. Tháng 9/2013, các nhà khoa học đã tìm ra một chất dẻo mới có khả năng "tự liền" theo nghĩa đen và được đặt tên dựa theo tên bộ phim nổi tiếng - Terminator polymer.
Trong video trên, các khoa học gia cắt đôi mẫu vật liệu, sau đó ghép chúng lại với nhau. Vật liệu này đã tái tạo tới 97% tình trạng ban đầu. So sánh với một số loại polymer hiện nay, thông thường để phục hồi cần một số tác động bên ngoài như nhiệt độ hay tính chất môi trường, nhưng Terminator polymer là loại vật liệu đầu tiên có thể tự phục hồi mà không cần yếu tố bên ngoài tác động.
Ngoài ra, loại vật liệu mới này được đánh giá là bền hơn rất nhiều so với các loại vật liệu dẻo thông thường. Theo chuyên gia chất dẻo David Mercerreyes thuộc ĐH Basque, Tây Ban Nha thì Terminator polymer có thể ứng dụng nhằm cải thiện tuổi thọ và độ an toàn cho những bộ phận bằng chất dẻo, đồng thời mở ra tiềm năng sử dụng trong an ninh, y tế, đặc biệt là phẫu thuật thẩm mĩ.
4. Siêu vật liệu ghi nhớ
Thuật ngữ "Siêu vật liệu"- metamaterial - ám chỉ những vật chất nhân tạo có tính chất khác thường. Những nhà nghiên cứu thuộc ĐH Cornell (Mỹ) đã tìm ra một siêu vật liệu như thế: một dạng hydrogel ADN có thể nhớ và quay lại được hình dạng đầu tiên của nó. (Hydrogel là loại vật liệu mềm và ẩm ướt, có tới 95% thành phần nước và các phân tử nằm trong khung polymer).
Trong thí nghiệm, ống nghiệm chứa đựng mẫu hydrogel ADN mới này khi gặp nước sẽ chuyển đổi hình dạng thành các chữ cái. Những chữ cái này chính là hình dạng đầu tiên của chúng.
Tuy nhiên, có một điểm kì lạ đó là ngay bản thân những khoa học gia khám phá ra siêu vật liệu mới này cũng... không thể giải thích chính xác được cơ chế hoạt động của nó.
Theo Dan Luo - trưởng ban nghiên cứu ĐH Cornell, với khả năng ghi nhớ, siêu vật liệu này có thể rất phù hợp trong việc gia tăng diện tích tiếp xúc và làm tăng hiệu quả của thuốc.
Điều này rất cần thiết cho công tác hậu phẫu, đặc biệt trong phẫu thuật ung thư, khi thách thức lớn nhất là tiêu diệt hoàn toàn tế bào ung thư nhằm tránh di căn. Ngoài ra, việc kết hợp với các nguyên liệu khác cũng mở ra tiềm năng vô cùng to lớn cho y khoa nói riêng và ngành sinh học nói chung.
5. Vật liệu siêu bền Graphene
Graphene có thể hiểu đơn giản là một lớp cực mỏng của graphite (chất liệu dùng làm ruột bút chì), được nhà khoa học người Anh - Andre Geim phát hiện vào năm 2004 và giúp ông đạt giải Nobel vật lí vào năm 2010.
Graphene được mệnh danh là siêu vật liệu của tương lai là bởi vì nó rất mỏng, đạt độ dày chỉ bằng một phân tử nhưng lại nhìn thấy bằng mắt thường và cứng gấp 200 lần thép.
Để chọc thủng một lớp Graphene mỏng như tờ giấy cần áp lực của một con voi đứng cân bằng trên một chiếc bút chì. Ngoài ra, Graphene còn có độ bền cực cao, dễ dàng uốn cong ở bất kì góc độ nào.
Nhưng sự "bá đạo" của Graphene chưa dừng ở đó. Graphene có khả năng truyền dẫn điện từ nhanh gấp 10 lần silicon, mặc dù tấm Graphene trông giống hệt một tấm nhựa dẻo (nhựa không dẫn được điện).
Điều này hứa hẹn về nguồn linh kiện điện tử mới, cùng hệ thống sạc pin cực nhanh cho tương lai. Bên cạnh đó, khi đưa Graphene vào trong thành phần kim loại sẽ làm gia tăng độ đàn hồi lên đến 500 lần.
Hiện nay, các nhà khoa học đang gấp rút nghiên cứu nhằm đưa Graphene vào thực tiễn và đã đạt một số thành công nhất định như Graphene aerogel - vật liệu nhẹ nhất thế giới, nhẹ hơn cả khí Heli hay cả... bao cao su Graphene siêu bền.
6. Vật liệu cách nhiệt hoàn hảo
Với tên gọi Starlite, vật liệu này có thể coi là một dạng nhựa được tìm ra bởi nhà hóa học không chuyên kiêm thợ làm tóc người Anh - Maurice Ward khi ông đang làm bếp. Đây là vật liệu có khả năng cách nhiệt hoàn hảo theo đúng nghĩa đen, tức là có thể chịu được nhiệt độ cực cao mà không hề suy chuyển.
Để chứng minh độ "khủng" của Starlite, các nhà nghiên cứu thực hiện thí nghiệm đốt 2 quả trứng bằng lửa khò kim cương 3000 độ C, một quả bình thường, một quả được bọc một lớp Starlite.
Quả trứng bình thường vỡ gần như ngay lập tức khi chạm vào ngọn lửa, trong khi quả trứng bọc starlite không hề suy chuyển. Khi thí nghiệm viên cầm tay trần trực tiếp vào quả trứng vừa hứng chịu nhiệt độ cực cao, ông cho biết "không cảm thấy gì, dù chỉ là âm ấm". Thậm chí, lòng trứng vẫn còn nguyên vẹn khi đập ra.
Starlite thậm chí chịu được vụ nổ bom nguyên tử.
Thoạt đầu, các khoa học gia chối bỏ vật liệu này vì cho rằng khả năng này quá phi thực tế, và nó do một người thợ làm đầu tìm ra. Một số còn cho rằng, đây chỉ là trò lừa bịp.
Tuy nhiên, sau khi kiểm chứng lại thì tất cả đều choáng ngợp và tin vào tiềm năng của nó: một mẫu Starlite đã "sống sót" dưới nhiệt độ trên 10.000 độ C, thậm chí dưới đèn năng lượng hạt nhân tương đương 75 Hiroshima (1 Hiroshima = 15 kiloton TNT - mức năng lượng khi kích nổ 15 ngàn tấn thuốc nổ TNT).
Starlite đã được Boeing và NASA cho rằng có tiềm năng làm nên một cuộc cách mạng vật liệu và vũ khí trên toàn thế giới. Một hợp đồng sản xuất hàng loạt được đưa ra cho Ward, tuy nhiên ông không đồng ý tiết lộ công thức. Thậm chí, ông còn không đăng kí bản quyền vì điều này đồng nghĩa với việc phải tiết lộ thành phần của Starlite.
Thật không may, Ward đã qua đời vào năm 2011, khi bí mật về vật liệu siêu cách nhiệt vẫn đang được bỏ ngỏ. Tuy vẫn có thông tin rằng gia đình Ward hiện đang nắm giữ bí mật về quy trình sản xuất Starlite nhưng hiện chưa có bằng chứng cụ thể. Dù sao các nhà khoa học vẫn tin rằng, loài người sẽ thực sự kiểm soát được nó vào một ngày không xa.
Theo Genk
Màn hình dẻo có phải lựa chọn tốt của tương lai? Thời gian gần đây, màn hình dẻo đang khá được nhiều người chú ý và cũng đã xuất hiện trên một số sản phẩm. Tuy nhiên, nó có phải là lựa chọn tốt trong thời gian tới? Galaxy Round của Samsung đã trở thành chiếc điện thoại màn hình cong đầu tiên trên thế giới. Tuy giá bán của sản phẩm này rất...