Châu Á cần chuẩn bị đối phó khủng hoảng tài chính
Những thách thức liên tục của một môi trường kinh tế đang thay đổi không phải là mới đối với khu vực ASEAN 3 bao gồm 10 thành viên ASEAN cộng với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Trong thập kỷ qua, khu vực này đã từng hứng chịu cú sốc do cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008.
Theo chuyên gia kinh tế người Nhật Bản Yassuto Watanabe – Phó Văn phòng nghiên cứu kinh tế vĩ mô ASEAN 3 (AMRO), khu vực này cần phải chuẩn bị sẵn sàng để đối mặt với cuộc khủng hoảng tài chính tiếp theo.
Nhiều rủi ro trong ngắn hạn
Theo chuyên gia Watanabe, khu vực ASEAN 3 đã phục hồi tăng trưởng thông qua việc tăng cường hội nhập thương mại và đầu tư so với tình hình trước cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997. Khu vực này hiện chiếm hơn một phần tư GDP thế giới và 30% thương mại toàn cầu.
Tuy nhiên, sự mở rộng trong thương mại quốc tế và sự phức tạp ngày càng tăng trong các mạng lưới tài chính và các hoạt động khác đang gia tăng rủi ro của dòng vốn. Để giảm thiểu những rủi ro này cần phải đảm bảo nỗ lực phối hợp ở cấp quốc gia, khu vực và toàn cầu.
Ông Watanabe cho rằng nhiều rủi ro vẫn còn trong ngắn hạn, đáng chú ý là mối đe dọa của chủ nghĩa bảo hộ, thắt chặt các điều kiện tài chính toàn cầu và hậu quả của các sự kiện địa chính trị. Giữa những mối quan tâm trước mắt này, khu vực ASEAN 3 cần phải theo dõi các nguồn lực cấu trúc toàn cầu có ảnh hưởng đến nền kinh tế của mình, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính.
Khi các xu hướng toàn cầu như công nghệ số, những thay đổi trong chuỗi cung ứng toàn cầu và việc sử dụng công nghệ mới biến đổi bản chất của các giao dịch tài chính và kinh tế xuyên biên giới, các điều kiện thay đổi không chỉ mang tính quốc gia mà là mang tính khu vực, tính hài hòa.
Lấy ví dụ, dòng vốn đổ vào các thị trường mới nổi trong khu vực. Với công nghệ tạo điều kiện cho giao dịch tốc độ chớp nhoáng, những cú sốc bất ngờ trong dòng vốn là những rủi ro mà các nhà hoạch định chính sách phải đương đầu.
Khủng hoảng tài chính nếu xảy ra sẽ khiến nhiều người châu Á rơi vào tình trạng kiệt quệ. (Ảnh tư liệu)
IMF không còn giữ vị trí duy nhất
Mặc dù Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) là trung tâm của hệ thống tiền tệ quốc tế, là “lính cứu hỏa nổi tiếng nhất” để giúp các chính phủ đang gặp rắc rối trong một cuộc khủng hoảng nhưng chuyên gia Watanabe cho rằng hiện nay IMF không còn giữ vị trí duy nhất, vì ngày nay, một phần lớn của thế giới được ràng buộc bởi các thỏa thuận tài chính khu vực (RFA) có thể huy động nguồn lực tài chính cho các nước phải đối mặt với vấn đề thanh khoản tạm thời trong một cuộc khủng hoảng.
Video đang HOT
Một sự sắp xếp như vậy đó là Sáng kiến đa phương Chiang Mai (CMIM) được phát triển từ hệ thống hoán đổi tiền tệ giữa các nền kinh tế ở Đông Á sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 với Văn phòng Nghiên cứu kinh tế vĩ mô Asean 3 (AMRO).
RFA được coi là một thành phần quan trọng của mạng lưới an toàn tài chính toàn cầu, trong đó, các thành phần khác gồm dự trữ ngoại hối, các hoán đổi song phương giữa ngân hàng trung ương và IMF. Sắp xếp tài chính toàn cầu và khu vực đang được tăng cường và phải cải thiện hợp tác với nhau để tạo thành một mạng lưới an toàn toàn diện và hiệu quả chống khủng hoảng tài chính và sự lây lan.
Ở cấp độ toàn cầu, IMF đang xem xét các cơ sở của mình định kỳ để đảm bảo sự đáp ứng nhu cầu tài chính của các thành viên trong bối cảnh phát triển kinh tế toàn cầu và thị trường tài chính.
Ở Đông Á, AMRO với chức năng hỗ trợ CMIM đã triển khai hỗ trợ các thành viên trong 3 năm qua để thực hiện các thử nghiệm chung với IMF nhằm nâng cao tính sẵn sàng hoạt động. Nhận thức tầm quan trọng của sự hợp tác giữa các bộ phận khác nhau của mạng lưới an toàn tài chính toàn cầu, AMRO đã tăng cường mối quan hệ với các đối tác khác nhau để trau dồi kiến thức chuyên môn.
Cần xây dựng mạng lưới an toàn khu vực
Theo ông Watanabe, xây dựng một mạng lưới an toàn khu vực mạnh mẽ là một dự án dài hạn. Trong nền kinh tế khu vực và toàn cầu đang thay đổi, có một số khía cạnh cần phải được tăng cường để thúc đẩy sự đóng góp của các tài trợ khu vực cho mạng lưới an toàn toàn cầu.
Thứ nhất, tăng cường sự phối hợp giữa nhiều tầng của mạng lưới an toàn tài chính toàn cầu. Đây là điều kiện tiên quyết để cung cấp hỗ trợ kịp thời và hiệu quả cho các quốc gia đang cần tài trợ để hỗ trợ vị trí bên ngoài của họ. Các quốc gia có thể kết hợp việc sử dụng các công cụ khác nhau để tạo ra sự phối hợp về mặt thời gian và mức độ can thiệp.
Thứ hai, cần tăng cường hội nhập kinh tế khu vực cùng với vai trò của các thỏa thuận tài chính khu vực. Với những rủi ro bảo hộ gia tăng trong các nền kinh tế lớn cũng như những thay đổi trong mạng lưới sản xuất, cần phải tăng cường kết nối và tích hợp trong khu vực để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng trong khu vực và cải thiện khả năng phục hồi của khu vực trước những cú sốc bên ngoài.
Thứ ba, điều quan trọng đối với việc bố trí tài chính khu vực, ngoài vai trò cung cấp hỗ trợ thanh khoản ngắn hạn, nâng tầm chức năng của mình để đưa ra các khuyến nghị chính sách cho các thành viên đạt được sự ổn định kinh tế vĩ mô và tài chính, nhất là trong thời gian khủng hoảng.
Bên cạnh việc tăng cường mạng lưới an toàn tài chính khu vực và việc xây dựng dự trữ ngoại hối của mỗi nền kinh tế, các chính phủ đang xem xét sử dụng tiền nội tệ để giao dịch. Hiện tại, thương mại khu vực phụ thuộc nhiều vào việc sử dụng đồng USD mặc dù thương mại nội vùng đã phát triển đáng kể.
Việc tăng cường sử dụng tiền tệ trong khu vực sẽ giúp giảm rủi ro tỷ giá so với đồng USD. Hiện khu vực ASEAN 3 đang nắm giữ khoảng 6,2 nghìn tỷ USD trên tổng số 12,7 nghìn tỷ USD dự trữ ngoại tệ của thế giới.
Trong nền kinh tế và thị trường tài chính toàn cầu kết nối rất chặt chẽ, khủng hoảng tài chính buộc phải tái diễn bất cứ lúc nào. Không thể dự đoán được khi nào và ở đâu. Đó là lý do tại sao khu vực ASEAN 3 phải chuẩn bị cho cuộc khủng hoảng sắp tới.
Hồng Phúc
Theo phapluatxahoi.vn
Xếp hạng đại học: Không thể đòi hỏi cao khi đầu tư thấp
Các chuyên gia cho rằng được lọt vào top 500 bảng xếp hạng QS châu Á là dịp để các đơn vị đào tạo ĐH ở VN có thể soi mình, nhận thấy điểm yếu nhằm khắc phục nếu muốn duy trì thứ hạng hoặc không bị loại ra khỏi bảng xếp hạng những năm sau.
Một phòng nghiên cứu của trường thành viên ĐH Quốc gia Hà Nội, ĐH xếp thứ 124 trong bảng xếp hạng QS ASIA 2018 - 2019 - ẢNH: BÙI TUẤN
Chỉ tiệm cận với mức trung bình của châu Á
Tiến sĩ Nghiêm Xuân Huy, Giám đốc Trung tâm kiểm định giáo dục, ĐH Quốc gia Hà Nội, đánh giá số lượng các trường ĐH VN gia tăng trong các bảng xếp hạng QS châu Á cho thấy xu thế năng lực hội nhập của trường ĐH VN trong tương quan với các trường khác trong khu vực và trên thế giới.
"Bảng xếp hạng QS hướng vào các tiêu chí lớn: đánh giá của cộng đồng về chất lượng nghiên cứu khoa học (qua khảo sát các học giả và nhà tuyển dụng); năng lực quốc tế hóa thông qua công bố quốc tế, thông qua lượt trao đổi sinh viên và học giả; năng lực khoa học công nghệ thông qua số lượng bài, số lượng trích dẫn... Thế mạnh của các trường ĐH VN đang gia tăng cả 3 phần này, điều đó cho thấy năng lực hội nhập ở đây không chỉ câu chuyện về đào tạo mà còn về nghiên cứu, thể hiện ở chỉ số trong công bố quốc tế, chỉ số trích dẫn, các chỉ số khác liên quan tới năng lực học thuật, tỷ lệ giảng viên (GV) là tiến sĩ, đều đang tiếp cận với khu vực và thế giới", tiến sĩ Huy nhận xét.
Tuy nhiên, ông Huy cho rằng: "Điểm yếu cố hữu của VN là chỉ số về GV/sinh viên khá thấp so với mặt bằng chung của khu vực châu Á. Ngay cả ĐH Quốc gia Hà Nội là tốt nhất, nhưng cũng chỉ tiệm cận với mức độ trung bình của châu Á".
Một điểm yếu khác, theo tiến sĩ Huy, là tỷ lệ GV/bài báo. Ngay cả ĐH Quốc gia Hà Nội, đơn vị có chỉ số GV/bài báo tốt nhất VN, cũng chỉ đạt 0,2 GV/bài báo công bố trên tạp chí Scopus.
Đòi hỏi đầu tư phải hết sức bài bản
Trước thông tin nhiều nước trong khu vực ASEAN như Indonesia, Malaysia, Philippines đều có các trường được lọt vào top 100 bảng xếp hạng QS ASIA 2018 - 2019, trong khi đơn vị đạt thứ hạng cao nhất của ta cũng chỉ ở vị trí 124, PGS Hoàng Minh Sơn, Hiệu trưởng Trường ĐH Bách khoa Hà Nội, chia sẻ: "Việc phấn đấu xếp hạng là một câu chuyện đầy thách thức. Việc phấn đấu thăng hạng phản ánh phần nào nỗ lực tăng chất lượng của chúng ta, nhưng bản chất là câu chuyện đầu tư. Trong khi đầu tư đối với giáo dục ĐH chỉ ở mức trung bình (nếu tính mức bình quân thì thấp rất nhiều so với các nước trong khu vực), thì đạt được những thành tích như đang có là rất đáng trân trọng".
PGS Sơn cho rằng tất cả các bảng xếp hạng đều dành trọng số cao cho việc đánh giá về mức độ nghiên cứu. Trong khi đó, các trường ĐH không thể lấy nguồn thu từ học phí của sinh viên ra để làm nghiên cứu, mà đòi hỏi phải có sự đầu tư của nhà nước, doanh nghiệp.
"Muốn nghiên cứu tốt, không phải chỉ đầu tư cho các đề tài mà còn cho phát triển con người, cơ sở vật chất phục vụ nghiên cứu. Đã là nghiên cứu, mà nghiên cứu đỉnh cao để có công bố quốc tế thì đòi hỏi sự đầu tư phải hết sức bài bản, tốn kém, hiện đại. Cho nên, hiện nay 7 trường của VN nằm trong tốp 500, trong đó 2 ĐH quốc gia đứng ở vị trí 124 và 144 là cao, phản ánh giáo dục ĐH hiệu quả rất tốt so với mức độ đầu tư. Đầu tư chưa cao mà lại mong ở top 50 - 100 thì đó là điều không tưởng", PGS Sơn nói.
Vì thế trong điều kiện hiện nay, theo PGS Sơn, khi phấn đấu để nâng các chỉ số phục vụ cho việc xếp hạng thì cũng cần để ý làm sao những nỗ lực phải trong phạm vi mình làm được mà không phải tốn kém gì thêm. Chẳng hạn như việc tăng số bài báo quốc tế. Việc này không tốn kém hơn nhiều nhưng phải công bố chọn lọc, hoặc gia công thêm tiếng Anh cho công bố ở tạp chí quốc tế để tăng sự ghi nhận của thế giới.
Cần quan tâm chất lượng trước xếp hạng
PGS Phan Thanh Bình, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa - Giáo dục - Thanh niên - Thiếu niên - Nhi đồng của Quốc hội, cho rằng việc tham gia các bảng xếp hạng có ý nghĩa ở chỗ khi muốn hội nhập quốc tế thì cũng cần biết mình đang ở đâu. Đánh giá của các hệ thống xếp hạng, dù họ lựa chọn hệ thống tiêu chí nào vẫn là những đánh giá có tính khách quan, để nhìn nhận lại hệ thống giáo dục ĐH của chúng ta, sự phấn đấu của các cơ sở giáo dục ĐH và cả công tác quản lý.
Theo PGS Bình, trên thế giới, nhiều ĐH truyền thống không quan tâm tới xếp hạng. Họ cho rằng họ nhận thức được vai trò và trách nhiệm của mình trong việc tạo nên và giữ được chất lượng của mình. Xếp hạng là một vấn đề mới, ở VN lại càng mới. Gần đây khi đặt ra vấn đề tự chủ, cạnh tranh, thì mới có nhu cầu được xếp hạng. Cho nên cũng không cần đặt vấn đề 7 trường được lọt vào bảng xếp hạng châu Á hay 2 trường vào bảng 1.000 thế giới mà trước hết đặt vấn đề chất lượng. Cứ có chất lượng thì tự động nó sẽ đi vào xếp hạng.
Tuy nhiên, theo ông Bình, khi hội nhập thì phải quan tâm đến xếp hạng nhưng ở khía cạnh xác định chuẩn mực của các trường ĐH trên thế giới, phải đặt chất lượng trong bối cảnh chuẩn mực của thế giới.
Giáo dục ĐH VN bắt đầu quan tâm nghiên cứu khoa học quốc tế
Theo ông Nguyễn Văn Phúc, Thứ trưởng Bộ GD-ĐT, các cơ sở giáo dục ĐH trong những năm qua đã ý thức được việc xây dựng uy tín, chất lượng, hội nhập với thế giới. Hiện nay đã có 117 trường được kiểm định, hơn 100 chương trình được kiểm định quốc tế... Các cơ sở giáo dục ĐH bắt đầu quan tâm đến nghiên cứu khoa học quốc tế.
"Việc phấn đấu thăng hạng phản ánh phần nào nỗ lực tăng chất lượng của chúng ta, nhưng bản chất là câu chuyện đầu tư"
PGS Hoàng Minh Sơn,Hiệu trưởng Trường ĐH Bách khoa Hà Nội
Theo thanhnien
Việt- Hàn tìm kiếm cơ hội hợp tác mới phù hợp thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 Nhân dịp Diễn đàn Kinh tế thế giới khu vực ASEAN (WEF ASEAN) được tổ chức tại Hà Nội từ ngày 11-13.9.2018, Đại sứ quán Đại Hàn Dân Quốc tại Việt Nam phối hợp cùng Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc tại Hà Nội (KORCHAM) tổ chức sự kiện "Korea Night" vào tối ngày 11.9 tại Hà Nội. Ông Klaus Schwab - người...