Chấn thương ở người cao tuổi
Sự gia tăng số người cao tuổi (NCT), đồng nghĩa với sự gia tăng chấn thương ở người cao tuổi (CTNCT). Cấp cứu CTNCT cần tiến hành đồng loạt các thương tổn trên nền tảng nhiều bệnh tật của họ, cũng như cần áp dụng các điều trị đặc hiệu cho NCT.
Nguyên nhân
NCT bị chấn thương thường do các nguyên nhân như ngất vì tụt huyết áp, hạ đường huyết, thiếu oxy… do tai nạn giao thông. Giống như ở trẻ em, NCT bị ngược đãi chấn thương là vấn đề đáng lưu ý, họ cũng dễ bị chấn thương khi đánh nhau. Đặc biệt, té ngã thường gặp ở lứa tuổi 65 – 75… NCT bị bệnh tật cũng nhiều khi dẫn đến chấn thương. Vấn đề tiền sử bệnh của họ cần được khai thác chính xác. Việc hỏi bệnh cần theo thứ tự các thông tin về chấn thương, tiền sử bệnh, thuốc họ đang dùng, các hiện tượng dị ứng gần đây. Các thông tin này có thể thu được từ: gia đình, thầy thuốc gia đình, người nhận bệnh đầu tiên… Dấu hiệu sinh tồn ở CTNCT cần được theo dõi sát, trong cấp cứu cần cảnh giác với nhịp tim “bình thường” ở CTNCT. Nhịp tim bình thường khi đang diễn tiến với tình trạng đau, hạ huyết áp, sợ hãi, có thể sự bình thường này sẽ thay đổi đột ngột để trở thành “không bình thường”. Các dược chất – blocan có thể che dấu nhịp tim nhanh, làm chậm trễ hồi sức cấp cứu.
Người cao tuổi dễ bị chấn thương trong sinh hoạt hàng ngày
Thay đổi bệnh lý giải phẫu ở người lớn tuổi làm khó khăn cấp cứu, hồi sức ban đầu, cũng như làm tăng tỷ lệ tử vong, tàn phế. Cần lưu ý việc sử dụng răng giả, thoái hóa cột sống cổ, viêm khớp thái dương hàm, các thương tổn ở CTNCT như chấn thương chỉnh hình, chấn thương đầu nhẹ nhiều khi không quá trầm trọng của hồi sức ban đầu nhưng những vấn đề này sẽ hợp lại, dẫn tới tử vong, thương tật sau này. Vì vậy sự ổn định ở CTNCT có thể sụp đổ mà không có một cảnh báo nào.
Các chấn thương
Chấn thương đầu: đánh giá tri giác ở NCT thường dễ sai lầm và rất khó khi họ có sa sút trí tuệ, suy nhược của tuổi già.
Video đang HOT
Máu tụ ngoài màng cứng: ít gặp ở NCT, họ thường có máu tụ dưới màng cứng, đặc biệt máu tụ dưới màng cứng mạn tính “xuất hiện vài tuần, vài tháng sau chấn thương”. Nên làm CT não cho tất cả chấn thương đầu ở NCT, họ cần được theo dõi ở chuyên khoa chấn thương thần kinh khi bị chấn thương cũng như một thời gian sau khi ra viện.
Chấn thương cột sống cổ ở NCT khác người trẻ, họ thường bị thương tổn ở cột sống cổ C1 và C2. Khi NCT bị chấn thương có than đau cổ, họ cần được bất động cổ ngay, cho đến khi họ được chẩn đoán cổ, cột sống không bị gì. Thoái hóa cột sống cổ có thể che giấu xương nứt trên X-quang thường nên làm CT hay MRI. Chấn thương ngực, chấn thương kín có thể làm gãy xương sườn do sự thoái hóa xương ở NCT. Đau do gãy xương sườn, cùng với sự suy giảm về hô hấp ở NCT sẽ dẫn tới các biến chứng phổi. Các chấn thương nặng như: tràn khí màng phổi, dập phổi, mảng sườn di động, chấn thương tim sẽ dẫn đến mất bù trong hồi sức. Phân tích khí máu động mạch cần làm sớm để đánh giá chức năng phổi.
Chấn thương bụng: khám bụng ở NCT rất khác biệt với người trẻ. Khi khám lâm sàng, thấy bụng rất bình thường, nhưng việc theo dõi một tổn thương trong ổ bụng vẫn cần quan tâm tiếp tục, khi có kèm theo gãy khung chậu, xương sườn xuất hiện ở chấn thương NCT.
Ở bệnh nhân NCT có mổ bụng, việc dính các tạng trong bụng là yếu tố nguy hiểm khi chọc dò ổ bụng. Nếu siêu âm có máu ổ bụng, nên cho họ làm CT có cản quang, đây là một chẩn đoán giá trị. Cần chú ý sự mất nước và chất cản quang có ảnh hưởng tới chức năng thận, vì có khi bệnh nhân có sự tăng mất nước do họ dùng thuốc lợi tiểu trước đó. Vấn đề hạ thể tích và chất cản quang làm trầm trọng bệnh lý thận.
Chấn thương chỉnh hình: gãy xương dài như xương đùi, xương chày, xương cánh tay làm mất cử động, hậu quả giảm sự tự sinh hoạt ở NCT. Gãy đầu dưới xương trụ và gãy cổ phẫu thuật xương cánh tay do té ngã có chống tay, cùi chỏ. Họ có dấu hiệu đau tại chỗ, sưng nề, bầm tím khi có dấu hiệu của các thương tổn trên cần mời các chuyên khoa chỉnh hình sớm để điều trị – cố định…
Điều trị
Cung cấp đủ oxygen là mục tiêu bắt buộc thực hiện. Đặt nội khí quản, thở máy hỗ trợ nên làm ở bệnh nhân có chấn thương nặng, nhiều thương tổn, nhịp thở hơn 40 lần/phút; PaO2 dưới 60mmHg, PaCO2 lớn hơn 50 mmHg. Hồi sức tích cực – đầy đủ ngay từ đầu nếu không họ sẽ nhanh chóng mất bù với các loại hồi sức tiếp theo. Truyền dung dịch keo vào hồng cầu ngay từ giai đoạn đầu chấn thương NCT. Vì NCT có nguy cơ tổn thương nặng ở mạch vành và não cũng như việc thiếu máu ở các cơ quan quan trọng khi họ bị tụt huyết áp. Truyền dung dịch keo và hồng cầu sớm giúp cung cấp đủ oxygen và giảm nguy cơ thiếu máu các bộ phận quan trọng. Theo dõi xâm lấn như theo dõi các thông số trong động mạch và việc đo áp lực động mạch phổi bờ nên làm, giúp đánh giá tình trạng huyết động học của bệnh nhưng đồng thời tránh việc điều trị quá chậm. Các xét nghiệm này cung cấp thông tin rất sớm về huyết động học; xác định các sốc tiềm ẩn, giới hạn của tụt huyết áp, ngăn ngừa các suy cơ quan; chúng cũng giúp theo dõi bệnh nhân tốt hơn…
Việc theo dõi này có hiệu quả khi biết oxygen được cung cấp đủ qua aole loading và inottropicneppont. Các xét nghiệm nên làm ở phòng cấp cứu. Bệnh nhân cao tuổi bị chấn thương tim nên chụp X-quang ngực cột sống cổ, khung chậu, siêu âm bụng, các xét nghiệm cần thiết khi theo dõi ở kỳ hai. Nếu cần nên làm CT não và bụng để chẩn đoán thương tổn
Theo SK&ĐS
Đừng tự chữa đái tháo đường theo "kinh nghiệm" người khác!
"Tôi bị đái tháo đường (ĐTĐ) đã 13 năm, đã từng uống Diệp Hạ Châu, rồi cây Hoàn Ngọc... nhưng kết quả chỉ một tháng đầu?". "Nghe nói trà Giảo cổ lam hạ đường huyết (ĐH), nên tôi ngưng hết thuốc tây, từ tết đến nay chỉ uống trà loại này?".
Đó là những câu hỏi của người bệnh gửi cho thầy thuốc. Thậm chí, có người mua nước ép trái nhàu 600.000 đồng/chai, rồi cần tây, rau om mỗi ngày/bó, uống thử.... Điều này cho thấy hiện có rất nhiều người tự chữa theo kinh nghiệm người khác được truyền miệng và quảng cáo loạn xạ.
Trả lời các câu hỏi của người bệnh về việc sử dụng cây diệp hạ châu, cây hoàn ngọc, trái nhàu ngâm rượu uống... để chữa ĐTĐ, DS. Lê Kim Phụng khuyên bà con không nên tin vào lời truyền miệng hoặc quảng cáo. Tùy loại, có thể có những độc tính trường diễn về lâu dài, âm thầm mà mình không biết, mỗi ngày ngấm một ít, nhiều năm làm cơ thể ngộ độc. Dân gian sử dụng rễ nhàu là chính, nhưng để làm hạ áp chứ không phải để chữa ĐTĐ; rau cần tây - theo tài liệu nói làm hạ huyết áp, chứ chưa thấy hạ ĐH để điều trị ĐTĐ; rau om cũng làm lợi tiểu, chữa sỏi thận chứ không phải dùng hạ ĐH. Hiện rất nhiều người tin rằng lá dứa sắc nước uống chữa được ĐTĐ. Nhưng trên thực tế, lá dứa chỉ có tác dụng chống oxy hóa tế bào, kháng khuẩn chống dị ứng và chống viêm mạnh. Các chất chiết từ rễ cây lá dứa thì có tác dụng chữa bệnh đi tiểu nhiều, chứ không có tác dụng hạ ĐH .
DS. Lê Kim Phụng cho biết:
ĐTĐ là bệnh mạn tính có yếu tố di truyền. Người mắc ĐTĐ có các triệu chứng như: uống nhiều, tiểu nhiều (cả về lượng nước tiểu lẫn số lần đi tiểu); ăn nhiều, sụt cân, mệt mỏi; nhức đầu, chóng mặt, mất ngủ; rụng tóc (thường gặp ở phụ nữ); rối loạn kinh nguyệt, viêm âm đạo; mờ mắt; nhiễm trùng da, nhiễm trùng âm đạo tái đi tái lại; tăng nguy cơ nhiễm khuẩn âm đạo và biến chứng trong thời gian mang thai. Người bệnh ĐTĐ dễ mắc các bệnh tim mạch như: cao huyết áp, tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim, cơn đau thắt ngực; dễ bị loét chân, hoại thư chân; biến chứng ở não, mắt, thận, làm cho các cơ quan này bị tổn thương. Đặc biệt, do suy giảm sức đề kháng nên người bệnh ĐTĐ dễ bị nhiễm trùng, nhiễm lao hay nhiễm nấm phổi.
Ngoài việc phải dùng thuốc đúng theo chỉ định của bác sĩ và tập thể dục đều đặn, người bệnh nên dùng các thực phẩm có tác dụng hỗ trợ phòng chống ĐTĐ, như:
Cải xà lách xoong (loại cọng dài) làm hạ ĐH, cung cấp nhiều chất khoáng cho cơ thể chống thiếu máu, chữa hoại huyết, giải độc cơ thể... Nhờ chất dầu có tính kháng khuẩn nên cải xà lách xoong còn có tác dụng chống cảm cúm mùa hè. Có thể ăn sống mỗi lần khoảng 100g, vò hoặc giã nát lọc lấy nước uống 2 - 3 lần trong ngày.
Đậu cô ve (đậu Hà Lan) có tác dụng lợi tiểu và làm giảm lượng đường trong máu nên dùng t r ị phù thũng và ĐTĐ. Nên mua loại quả nhiều thịt, hột nhỏ, khi quả già chín thì xuất hiện một loại albumin độc nhưng đun sôi thì chất này bị phá hủy, vì vậy phải nấu lâu hơn để giảm độc. Có thể luộc, xào, hoặc dùng dạng nước sắc: lấy khoảng 100g vỏ quả đậu khô ngâm trong 2 lít nước cho mềm rồi đun sôi nhanh, lấy nước uống trong ngày.
Hành tây: rất giàu khoáng tố vi lượng như: Ca, Na, Fe, K, P, S, I, Si ..., tinh dầu disulfur allyl, protid, glucid, chất xơ, nhiều vitamin B1, B2, PP và C. Hành tây có nhiều công dụng trong y học, được dùng làm thuốc chữa ho, chống nhiễm khuẩn, chống huyết khối, chống xơ cứng động mạch, chống mệt mỏi, chữa suy nhược cơ thể, suy nhược thần kinh và có tác dụng làm hạ ĐH. Mỗi ngày sử dụng một củ nhỏ 100 - 200g dạng tươi hoặc 10ml rượu thuốc 20% (200g củ hành ngâm trong 1 lít rượu).
Khổ qua (mướp đắng): khi còn xanh khổ qua có tác dụng hạ nhiệt, tiêu đờm, làm nhuận tràng, sáng mắt, hạ ĐH. Tại khoa Y học cổ truyền Đại học Y Dược TP.HCM, bài thuốc khổ qua kết hợp với lá đa dạng trà dùng điều trị ĐTĐ trên lâm sàng cho kết quả rất tốt. Quả, thân, lá đều dùng được, mỗi ngày 1 - 2 quả hoặc 20g dây lá phơi khô sắc lấy nước uống.
Khoai lang: ngoài củ dùng làm thuốc nhuận trường, chữa táo bón và bệnh trĩ. Trong dây và lá khoai lang có chứa nhiều chất bổ dưỡng như: adenin, betain, cholin, khoáng tố, trong ngọn lá còn có thêm một chất có tác dụng như insulin, nhờ vậy mà đọt khoai lang được dùng điều trị ĐTĐ, sắc uống mỗi ngày từ 15 - 20g đọt khoai lang phơi khô rất tốt.
Tỏi: ngoài tác dụng tốt như kháng sinh, chữa cảm cúm, chữa giun, chống xơ vữa động mạch, hạ huyết áp, phòng chống ung thư... nghiên cứu gần đây còn cho thấy tỏi có tác dụng điều hòa hàm lượng đường trong máu, nhờ đó giúp ổn định ĐH. Có thể nhai sống 4 - 5 tép tỏi mỗi ngày hoặc sử dụng dạng rượu tỏi, nếu dùng dạng cồn tỏi thì mỗi ngày dùng 20 - 40 giọt.
Tỏi tốt cho người đái tháo đường
Quế: kết quả nghiên cứu tại Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) chứng minh quế giúp kiểm soát lượng ĐH rất hữu hiệu trên các bệnh nhân ĐTĐ týp 2, mỗi ngày sử dụng 1g bột quế (khoảng 1/4 muỗng cà phê) trong 6 tuần không những giúp giảm lượng ĐH mà còn giảm được các chất cholesterol xấu và triglyceride trong cơ thể. Tuy nhiên, quế có tính đại nhiệt (quá nóng) nên cần thận trọng khi sử dụng ở người già yếu, phụ nữ có thai. Khi thấy nóng thì có thể ngưng uống.
Sinh địa: chữa suy nhược, thiếu máu, thổ huyết, băng huyết, kinh nguyệt không đều. Sinh địa còn có tác dụng ức chế ĐH nên dùng để điều trị ĐTĐ, mỗi ngày 10 - 15g dạng thuốc sắc, hoặc phối hợp với khổ qua, lá Neems. Các nhà sản xuất dược phẩm ở Ấn Độ đã chiết xuất hoạt chất và bào chế ở dạng thuốc bột, mỗi ngày 2 lần, mỗi lần uống một muỗng cà phê hòa trong 100ml nước ấm.
Theo SK&ĐS
6 thói quen làm giảm trí nhớ Rất có thể bạn đánh mất chìa khóa nhà 3 lần một ngày, và mất hàng tiếng đồng hồ chỉ để nghĩ xem bạn muốn làm gì nếu bạn vẫn... 1. Uống rượu Nghiện rượu, nhất là rượu mạnh chính là tác nhân gây nên những tổn thương rất khó, thậm chí không thể phục hồi ở não, Chúng, tất nhiên sẽ đe...