‘Cha đỡ’ của những sản phụ mang HIV/AIDS
Tim thai nhi ngừng đập trước một tuần dự sinh, bác sĩ Vũ cố kìm cảm xúc rồi chỉ huy kíp trực gây chuyển dạ lấy thai ra, bảo vệ mẹ.
Đèn phòng mổ bật sáng. Không khí yên lặng bao trùm. Các y bác sĩ đội mũ kín mít, mỗi người đeo ba đôi găng dài đến bắp tay và mặc thêm áo ni lông để ngăn dịch bắn vào người.
Trên bàn mổ là sản phụ 30 tuổi, mang thai ở tuần 36, mắc bệnh AIDS và đã nhiều lần hỏng thai. Bác sĩ Vũ đánh giá, bệnh nhân mắc bệnh truyền nhiễm nên sức đề kháng kém kết hợp với tiểu đường thai kỳ nên yếu hơn các sản phụ khác.
“Nỗi mất mát đó ám ảnh tôi nhiều năm bởi đứa trẻ đã thành hình và chỉ còn một tuần nữa có thể chào đời”, bác sĩ Lê Thế Vũ, 53 tuổi, Trưởng khoa Sản nhiễm trùng, Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội, kể lại một ca bệnh trong ký ức.
Ngoài các bệnh nhân HIV/AIDS, Khoa Sản nhiễm trùng còn tiếp nhận và đỡ đẻ cho những sản phụ mắc nhiều bệnh truyền nhiễm khác như viêm gan B, giang mai, xử lý các trường hợp tai biến sản phụ khoa từ nơi khác chuyển về. Tháng 4/2020, khoa theo dõi một sản phụ là F1 của bệnh nhân Covid-19, khi diễn biến dịch đang phức tạp.
Thạc sĩ, bác sĩ Lê Thế Vũ, Trưởng khoa Sản nhiễm trùng, Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội. Ảnh: Thùy An
Con đường trở thành bác sĩ của Lê Thế Vũ bắt đầu tình cờ từ một lời nói của cha. “ Sao tay con lúc nào cũng sạch sẽ, bóng nhoáng như vừa sát cồn!”. Ông cụ nghĩ anh hợp làm thầy, “một là thầy giáo, hai là thầy thuốc”. Lời động viên của bố thôi thúc chàng trai tuổi 17 thi vào trường Y.
Sau 6 năm học, Vũ phải lựa chọn giữa các chuyên ngành là ngoại, sản, nội, nhi để đào tạo chuyên sâu. Thời điểm đó, ngoại khoa là chuyên ngành ước mơ của nhiều người, trong khi sản lại khá nhạy cảm với các bác sĩ trẻ và bệnh nhân. Gạt bỏ những khó khăn, anh nghĩ đơn giản: “Được tận tay đón một đứa bé chào đời khỏe mạnh là cảm xúc thiêng liêng của bác sĩ và có thể lan toả niềm hạnh phúc đến nhiều người, thế nên tôi chọn”.
Năm 1990, Thế Vũ tốt nghiệp và làm việc tại Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội. Ca đỡ đẻ đầu tiên là bé gái nay đã làm mẹ và sinh con, gọi bác sĩ Vũ là cha đỡ đầu.
Đến nay, anh đã gắn bó 30 năm với sản khoa, riêng khoa sản truyền nhiễm là 10 năm.
Bác sĩ Vũ (bên phải) đang cùng kíp mổ thực hiện ca phẫu thuật phụ khoa cho bệnh nhân bị giang mai, ngày 8/10. Ảnh: Bác sĩ cung cấp
Video đang HOT
Chọn truyền nhiễm phải đủ dũng cảm
Bác sĩ Vũ cho biết, ca đỡ cho sản phụ mắc bệnh truyền nhiễm đòi hỏi thao tác “chậm mà chắc”. Trong đó, đỡ đẻ cho sản phụ mắc HIV thường diễn ra lâu hơn so với bình thường. Bác sĩ vừa phải đảm bảo an toàn cho mẹ, không để trẻ bị xây xước vừa trang bị cho bản thân, tránh nguy cơ lây nhiễm, nhất là khi khâu tầng sinh môn hay tiếp xúc liên tục với máu, nước ối, dịch tiết…
“Công việc có tính rủi ro cao không có nghĩa là mình phải sợ hãi. Khi đỡ đẻ, tôi chỉ nghĩ đến làm thế nào để mẹ tròn con vuông. Việc thiếu tôn trọng, miệt thị hay bỏ rơi sản phụ là điều không được phép nghĩ đến”, bác sĩ Vũ chia sẻ.
Rủi ro lớn nhất mà công việc này chính là lây nhiễm HIV từ bệnh nhân, song y học hiện nay đã có thuốc chống phơi nhiễm HIV, giúp giảm nguy cơ lây truyền. Một số trường hợp mổ đẻ đòi hỏi tốc độ nhanh chóng nhưng lại phải xử lý từng bước kỹ lưỡng để tránh nguy cơ phơi nhiễm HIV cũng là thách thức với bác sĩ. Do đó, bác sĩ cần cẩn trọng và bảo hộ kỹ hơn bằng kính, mũ, găng tay, áo ni lông.
“Nhiều hôm rời phòng mổ mà người tôi mồ hôi nhiều như tắm, nhìn là biết bác sĩ khoa truyền nhiễm luôn”, bác sĩ cười nói.
Sản phụ mắc bệnh truyền nhiễm thiệt thòi hơn khi phải chịu sự kỳ thị từ cộng đồng, nhất là bệnh HIV. Nhíu mày nhớ lại một sản phụ ở Sơn La mang HIV và ung thư cổ tử cung. Khi biết tin, mẹ của cô đã nhất định không xuống chăm sóc con. Được mọi người ủng hộ một ít tiền, cô sống lay lắt một mình trong suốt những ngày hậu phẫu.
Một người phụ nữ khác đang có cuộc sống bình thường, bỗng chốc nhận kết quả dương tính HIV do sai lầm của chồng. Nỗi đau nhân lên gấp bội khi cô biết mình có thai.
“Nhiều sản phụ chỉ là nạn nhân nhưng khi mắc bệnh khiến họ mất bình tĩnh, có người muốn bỏ con, người muốn chấm dứt cuộc đời”, bác sĩ nói.
Trên thực tế, phụ nữ mang thai nhiễm HIV không có nghĩa là sinh con cũng sẽ nhiễm HIV. Nếu phát hiện và điều trị sớm, tỷ lệ lây nhiễm từ mẹ sang con có thể giảm đến 90%. Ngoài HIV, các bệnh truyền nhiễm khác cũng đã có phác đồ điều trị để giảm tỷ lệ lây nhiễm sang thai nhi. Trẻ khi chào đời sẽ được tiêm thuốc dự phòng để bảo vệ, ngăn ngừa khả năng nhiễm bệnh.
Tuy nhiên sản phụ mang bệnh truyền nhiễm có thể khiến thai nhi dị tật, lây nhiễm, thai lưu, mất tim thai. “Không cứu được các bé, thâm tâm tôi chưa bao giờ thanh thản”, bác sĩ nói, giọng nghẹn lại.
Với bác sĩ Vũ, được tận tay đón chào một em bé chào đời là cảm xúc thiêng liêng và cũng là “đặc ân” của bác sĩ sản. Ảnh: Thùy An
30 năm trong nghề, bác sĩ Vũ nói chưa bao giờ thấy hết yêu công việc. Anh không nhớ nổi mình đã đỡ đẻ cho bao nhiêu ca nhưng vẫn thấy mới mẻ khi một đứa trẻ bình an, cất tiếng khóc chào đời. Thường được mời đi lễ đầy tháng các bé như lời cảm ơn đến “người cha đỡ” mát tay, anh thấy công việc của mình thiêng liêng và ý nghĩa hơn nhiều phần.
Khép lại một ngày dài trong phòng mổ, anh trở về phòng làm việc đọc bệnh án nhưng vẫn luôn sẵn sàng có mặt khi có ca bệnh cần.
“Là bác sĩ truyền nhiễm, tôi hiểu được sự khó khăn của công việc này”, anh nói. “Thay vì lo lắng, tôi tìm cho mình những lý do để kiên trì, như là khoảnh khắc mẹ tròn con vuông, trọn vẹn hơn nữa là em bé sinh ra không mắc bệnh truyền nhiễm, lớn lên khỏe mạnh”.
Những bệnh tình dục có thể lây truyền từ mẹ sang thai nhi
Thai phụ mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục sẽ gặp nhiều biến chứng nguy hiểm, thậm chí ảnh hưởng tính mạng của mẹ và con.
Mới đây, thông tin bé sơ sinh ở Nghệ An mắc bệnh giang mai bẩm sinh khiến nhiều người lo lắng. Bệnh nhi được sinh ra từ người mẹ mắc bệnh giang mai. Sau khi sinh, các bác sĩ đã nhanh chóng phát hiện dấu hiệu bất thường và điều trị cho trẻ.
Trao đổi với Zing, ThS.BS Huỳnh Thị Thanh Thùy, khoa Lâm sàng 3, Bệnh viện Da liễu (TP.HCM), cho biết khi thai phụ mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục (STDs), thai nhi có nguy cơ lây nhiễm và gặp nguy hiểm.
Thai phụ nhiễm STDs nguy hiểm thế nào?
ThS.BS Huỳnh Thị Thanh Thùy cho biết bệnh lây truyền qua đường tình dục có thể tác động đến bất cứ ai, phụ nữ có thai không ngoại lệ. Một số bệnh có diễn biến âm thầm, không xuất hiện triệu chứng. Do đó, người nhiễm bệnh có thể không nhận biết được các dấu hiệu.
Trẻ sơ sinh bị lây bệnh giang mai từ mẹ được điều trị tại Bệnh viện Sản nhi Nghệ An. Ảnh: BVCC.
Đối với phụ nữ mang thai, khi nhiễm thêm STDs, cơ thể sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng do các biến chứng, thậm chí, tính mạng của người bệnh và thai nhi đều có thể bị đe dọa. Ngoài ra, bệnh lây truyền qua đường tình dục có thể làm tăng nguy cơ nhiễm HIV.
Bác sĩ Thùy nhấn mạnh trong thời kỳ mang thai, ngay khi nghi ngờ mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục, phụ nữ cần làm xét nghiệm tầm soát. Thai phụ có thể trao đổi với bác sĩ về bất kỳ triệu chứng nào gặp phải hoặc hành vi tình dục có nguy cơ cao và đề nghị làm xét nghiệm STDs.
"Ngay cả khi đã được tầm soát trong quá khứ, bạn cũng nên kiểm tra lại khi mang thai nếu nghi ngờ", bác sĩ Thùy nói.
Bên cạnh đó, một số bệnh lây truyền qua đường tình dục có thể chữa khỏi trong thai kỳ như chlamydia, lậu, giang mai, trichomonas và viêm âm đạo.
Tuy nhiên, các bệnh nguy hiểm như herpes sinh dục, viêm gan B, HIV không thể chữa khỏi. Một số trường hợp có thể dùng thuốc kháng virus hoặc biện pháp phòng ngừa khác để giảm nguy cơ truyền bệnh cho con.
Những bệnh tình dục nào có thể lây truyền từ mẹ sang con?
Bác sĩ Phan Thị Thùy Thao, khoa Da liễu, Bệnh viện quận 11, TP.HCM, cho biết đa số bệnh lây qua đường tình dục phổ biến như giang mai, lậu, sùi mào gà..., đều có khả năng truyền từ mẹ sang con.
Bệnh lậu: Đây là bệnh lây truyền qua đường tình dục do song cầu khuẩn Nesseria gonorrhoeae gây ra. Bệnh chủ yếu lây truyền qua đường tình dục và có thể lây sang con nếu người mẹ bị lậu trong thời gian mang thai.
Phụ nữ muốn có thai phải điều trị khỏi bệnh lậu vì vi khuẩn lậu có thể gây nguy hiểm cho trẻ trong khi mang bầu và sinh. Thai nhi có thể bị sinh non hoặc viêm kết mạc mắt do tiếp xúc dịch niệu đạo của người mẹ nhiễm lậu cầu.
Vi khuẩn lậu có thể gây nguy hiểm cho thai nhi trong khi mang thai và sau sinh. Ảnh: CNBC.
Giang mai: Vi khuẩn giang mai có thể lây truyền từ mẹ sang con do vi khuẩn xâm nhập vào máu qua dây rốn. Vi khuẩn giang mai xâm nhập có thể gây sẩy thai, thai chết lưu hoặc dị tật.
Sùi mào gà (mụn cóc sinh dục): Bệnh sùi mào gà khó phát hiện ở phụ nữ hơn nam giới vì cấu tạo bộ phận sinh dục phức tạp hơn. Ở nữ giới, sùi mào gà có thể xuất hiện ở âm hộ, âm đạo, cổ tử cung, hậu môn, miệng..., dưới dạng những nốt nhỏ màu thịt nâu hoặc hồng tươi hay trắng đục và mềm. Chúng mọc thành chùm trông giống hình súp lơ. Chúng có thể gây ngứa, khó chịu hoặc chảy máu khi giao hợp.
Em bé sinh ra từ người mẹ mắc bệnh sùi mào gà có thể mọc mụn cóc ở cổ hoặc u nhú thanh quản. Do đó, những trường hợp này thường có chỉ định phẫu thuật để bảo vệ cho em bé.
Herpes simplex: Bệnh thường gặp do Herpes Simplex Virus (HSV) gây bệnh chủ yếu ở môi - miệng và bộ phận sinh dục. Bệnh lây qua tiếp xúc trực tiếp với da và niêm mạc và từ mẹ sang con trong lúc sinh. Thai phụ nhiễm HSV có thể lây sang con qua đường tử cung lúc sinh.
Trichomonas vaginalis: Đây là do trùng roi Trichomonas Vaginalis hay gặp ở phụ nữ mang thai. Trẻ sinh ra bị nhiễm virus có thể mắc các bệnh về da liễu hay hô hấp.
HIV/AIDS: Virus HIV có thể xâm nhập vào máu qua nhau thai, máu và dịch tiết của mẹ trong khi sinh và qua sữa mẹ. Bác sĩ Thao khuyến cáo phụ nữ nên tầm soát HIV trước, trong thời gian mang thai để bảo vệ mẹ và con. Nếu bị HIV, bạn hãy tìm đến bác sĩ để được tư vấn và điều trị kịp thời.
Rước trăm thứ bệnh khi tái sử dụng bao cao su Lây nhiễm các bệnh lây qua đường tình dục, tăng nguy cơ mang thai ngoài ý muốn... và hàng chục căn bệnh khác nếu người sử dụng dùng phải bao cao su tái chế. Nguy cơ mắc nhiều bệnh khi tái sử dụng bao cao su Mới đây, cơ quan chức năng tỉnh Bình Dương đã phát hiện hàng trăm kg bao cao...