CEO VietBank: “Làm ngân hàng phải thay đổi để phù hợp với yêu cầu hội nhập”
Trò chuyện với ĐTCK dịp đầu năm, ông Nguyễn Thanh Nhung, Tổng giám đốc Ngân hàng Việt Nam Thương Tín (VietBank) cho biết, cạnh tranh ở lĩnh vực ngân hàng sẽ gia tăng áp lực lên hoạt động năm 2016.
Nguồn nhân lực là tài sản lớn của ngân hàng
Kiểm soát rủi ro nợ xấu và đạo đức của cán bộ tín dụng vẫn là thách thức đối với người điều hành. Vì vậy, làm ngân hàng trong bối cảnh hiện nay đòi hỏi có sự thay đổi để phù hợp với yêu cầu hội nhập.
Cạnh tranh giữa các ngân hàng, nhất là với hoạt động cho vay được đánh giá là khá gay gắt. Điều này có khiến hoạt động của các ngân hàng gặp khó khăn hơn trong năm 2016?
Cạnh tranh là động lực và là yếu tố cần thiết cho sự phát triển của mọi lĩnh vực. Cạnh tranh trong môi trường kinh doanh buộc doanh nghiệp nói chung, ngân hàng nói riêng buộc phải nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao động, đổi mới phong cách, phương thức phục vụ khách hàng… để cung cấp sản phẩm, dịch vụ đến cho khách hàng một cách tốt nhất.
Vấn đề là quan điểm của chúng ta về cạnh tranh. Có thể có 2 quan điểm: một là, cạnh tranh lành mạnh, nghĩa là cạnh tranh và hợp tác để cùng tồn tại, phát triển; hai là, cạnh tranh không lành mạnh, tức là cạnh tranh và chiến tranh, dẫn đến có thể đối thủ cạnh tranh sẽ không còn tồn tại, không thể tiếp tục hoạt động trên thị trường.
Cạnh tranh trong hoạt động tín dụng nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung lúc nào cũng gay gắt. Chúng ta mong muốn sự cạnh tranh này ngày càng gay gắt hơn, nhưng đó phải là cạnh tranh lành mạnh. Có như vậy thì hệ thống ngân hàng nói chung hay mỗi ngân hàng nói riêng mới luôn cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ để phục vụ người dân, doanh nghiệp.
Rủi ro nợ xấu một phần được cho là xuất phát từ ý thức và đạo đức của cán bộ tín dụng. Theo ông, yếu tố con người có phải là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến vấn đề này?
Kinh doanh ngân hàng dựa trên rủi ro, trong đó rủi ro tín dụng là trọng tâm. Vì vậy, rủi ro nợ xấu là một phần tất yếu trong hoạt động ngân hàng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nợ xấu.
Nguyên nhân khách quan: từ kinh tế vĩ mô (khủng hoảng chính sách, suy thoái kinh tế, tốc độ tăng GDP suy giảm, lạm phát tăng….) hoặc từ các yếu tố vi mô (phương án, dự án kinh doanh của khách hàng). Nguyên nhân chủ quan: có thể xuất phát từ sự vô ý (chính sách tín dụng và khẩu vị rủi ro của mỗi ngân hàng; năng lực quản trị, điều hành từ cấp quản lý hay năng lực thẩm định của cán bộ thẩm định….); cũng có thể là cố ý (từ ý thức và trách nhiệm của cán bộ ngân hàng, đặc biệt là cán bộ thẩm định và phê duyệt cho vay; từ đạo đức kinh doanh và trách nhiệm của khách hàng đối với nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng…hoặc từ đạo đức của cán bộ ngân hàng).
Như vậy, theo như phân tích ở trên thì đạo đức cán bộ là một trong những nguyên nhân chủ quan tạo nên nợ xấu. Tùy thuộc vào từng giai đoạn phát triển, từng cách thức quản trị điều hành và văn hóa kinh doanh của từng ngân hàng mà yếu tố đạo đức cán bộ có thể tác động đến nợ xấu.
Nhưng tác động dù nhiều hay ít thì đạo đức cán bộ là yếu tố mà việc ngăn chặn, phòng ngừa và xử lý rủi ro là khó khăn nhất đối với hoạt động ngân hàng. Bởi lẽ, ngân hàng không thể đào tạo, thay đổi đạo đức của một con người từ xấu thành tốt được, mà đạo đức đã được hình thành trong cả một quá trình giáo dục từ gia đình đến nhà trường, từ truyền thống gia đình, môi trường xã hội…
Vậy vai trò của con người đối với nợ xấu như thế nào trong hoạt động ngành ngân hàng? Con người luôn là nhân tố trọng tâm và quan trọng của một vấn đề. Nợ xấu cũng vậy, nhưng nguyên nhân thì có thể khác nhau: có thể do khách quan, do khả năng, năng lực, do ý thức chủ quan, do nhận định, đánh giá sai lầm… và cuối cùng là do đạo đức.
Video đang HOT
Với vai trò, vị trí lãnh đạo cấp cao của một ngân hàng, quan điểm của ông trong cách sử dụng và điều hành nguồn nhân lực, nhất là với bộ phận tín dụng, quản lý rủi ro?
Nguồn nhân lực là tài sản lớn của mỗi tổ chức, trong đó có ngân hàng, vì vậy, mỗi người điều hành, quản lý đều có những quan điểm, chính sách riêng để thu hút và sử dụng tài sản này. Nhận định của cá nhân tôi cũng không nằm ngoài quan điểm chung đó.
Thứ nhất, phải bắt đầu từ quan điểm về việc tuyển dụng và lựa chọn đầu vào: nguyên tắc tuyển dụng là phải đặt yếu tố đạo đức lên hàng đầu, kết hợp xem xét đến lý lịch và truyền thống gia đình, quá trình công tác cũng như kinh nghiệm chuyên môn của ứng viên.
Thứ hai, công tác đào tạo: nhân sự phải được đào tạo về văn hóa doanh nghiệp, về môi trường kinh doanh và đào tạo thường xuyên về chuyên môn.
Thứ ba, nguyên tắc bố trí công việc: việc bố trí nhân sự phải đảm bảo đáp ứng yêu cầu của tổ chức, của ngân hàng và phù hợp với nguyện vọng của cán bộ. Điều này sẽ giúp phát huy sự sáng tạo trong công việc của mỗi cán bộ, nhân viên cũng như đạt được hiệu quả mà doanh nghiệp mong muốn.
Thứ tư, sử dụng và điều hành nguồn nhân sự, theo tôi, phải có chính sách cán bộ minh bạch và công bằng để tạo niềm tin và khuyến khích người lao động gắn bó và cống hiến hết mình.
Làm ngân hàng trong bối cảnh hiện nay đòi hỏi thay đổi ra sao so với một vài năm trước, thưa ông?
Làm ngân hàng trong bối cảnh hiện nay đòi hỏi phải có sự thay đổi. Bởi lẽ, nền kinh tế hiện nay có sự hội nhập ngày càng mạnh mẽ, với nhiều cơ hội và thách thức từ các Hiệp định song phương, đa phương như Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (Vietnam – EU FTA), Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và các cơ hội, thách thức từ việc tham gia Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)… đòi hỏi các ngân hàng phải thay đổi để phù hợp với yêu cầu hội nhập.
Ông Nguyễn Thanh Nhung
Bên cạnh đó, sau giai đoạn đầu tiên của quá trình tái cơ cấu, hệ thống các TCTD đã được sắp xếp lại gọn hơn, hoạt động của các ngân hàng cũng dần minh bạch hơn. Với định hướng của Đề án tái cơ cấu các TCTD là đến năm 2020, hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ còn khoảng từ 15 đến 18 ngân hàng thì hoạt động của các ngân hàng hiện nay cần phải thay đổi để tồn tại.
Ngoài ra, với sự bùng nổ của công nghệ thông tin hiện nay, hoạt động của các ngân hàng cần có sự thay đổi về cách thức cung cấp sản phẩm, dịch vụ đến khách hàng. Sự thay đổi đó đòi hỏi các ngân hàng cần gia tăng các tiện ích cung cấp cho khách hàng nhiều hơn thông qua dịch vụ ngân hàng điện tử, internet banking, mobile banking…, dịch vụ không sử dụng tiền mặt… và để bảo đảm an toàn thì các ngân hàng cũng phải thay đổi về quản lý rủi ro mạnh mẽ hơn, có hệ thống quản lý rủi ro đủ mạnh để đáp ứng nhu cầu cạnh tranh và phát triển.
Tín dụng 2015 tăng trưởng tốt và dự báo tiếp tục cải thiện trong năm sau. Nhận định của ông về điều này và liệu tín dụng có tăng nóng trong 2016?
Năm 2015, với môi trường kinh doanh cải thiện, tăng trưởng tín dụng được đánh giá tốt ngay từ đầu năm, theo NHNN, ước tính cả năm 2015, tín dụng toàn ngành tăng khoảng 18%. Trong năm 2015, căn cứ tình hình thực tế cũng như đề nghị của các ngân hàng, NHNN đã có điều chỉnh về chỉ tiêu tín dụng cho một số ngân hàng. Tuy nhiên, năm 2016, NHNN xác định mục tiêu: tăng trưởng tín dụng 2016 ở quanh mức 18% và không quá 20%, đồng thời NHNN sẽ ấn định chỉ tiêu tín dụng cho các ngân hàng trên cơ sở quy mô và năng lực quản trị.
Bên cạnh đó, NHNN sẽ kiểm soát chặt chẽ tăng trưởng dư nợ của các ngân hàng thông qua việc báo cáo định kỳ của các ngân hàng cho NHNN. Vì vậy, với định hướng trên, dư nợ tín dụng khó tăng trưởng nóng trong năm 2016.
Thị trường BĐS dự báo sẽ ấm dần lên trong năm 2016 là cơ hội cho ngân hàng rót vốn cho vay mua nhà, đẩy nhanh tăng trưởng tín dụng. Theo ông, bên cạnh cơ hội, đâu là thách thức trong việc mở rộng cho vay lĩnh vực này?
Hoạt động ngân hàng Việt Nam chủ yếu phụ thuộc vào hoạt động tín dụng, mà hoạt động tín dụng phần lớn liên quan đến BĐS ở nhiều góc độ khác nhau: cho vay với mục đích sử dụng vốn vào BĐS (đầu tư kinh doanh dự án, mua nhà để ở, cho thuê…), bảo lãnh dự án BĐS, tài sản bảo đảm là BĐS…
Như vậy, khi thị trường BĐS ấm lên, giá BĐS tăng thì ngân hàng có cơ hội tăng tín dụng tốt hơn (vì dư nợ tín dụng thường tỷ lệ thuận với giá BĐS: cho vay từ 60-70% giá trị BĐS, tỷ lệ bảo đảm 70% giá trị tài sản đảm bảo là BĐS đó…).
Tuy nhiên, BĐS không tự nó sinh sôi, nảy nở vô giới hạn, không trực tiếp tạo ra giá trị gia tăng, nên đó là một thách thức đối với hoạt động ngân hàng.
Nhiều người cho rằng, làm CEO của một ngân hàng trong bối cảnh nợ xấu tăng là rất nguy hiểm. Điều đó có đúng với thực tế, thưa ông?
Phải nói rằng, CEO ngân hàng là nghề rất hấp dẫn mà ai vào nghề ngân hàng cũng phấn đấu để đạt được. Đó là vì: được quản lý một khối lượng tài sản rất lớn trong đó chủ yếu là tiền; quản lý đội ngũ cán bộ, nhân viên đông đảo mà phần lớn đều có trình độ cao; góp phần quyết định nhiều vấn đề lớn đối với ngân hàng; có thu nhập cao cùng với các chế độ phúc lợi khác…
Tuy nhiên, CEO ngân hàng cũng phải đối mặt với không ít các rủi ro như: áp lực từ phía cổ đông, HĐQT về hiệu quả hoạt động; áp lực từ phía CBCNV về môi trường hoạt động và thu nhập của họ; áp lực từ cơ quan quản lý và hệ thống chính sách; áp lực từ khách hàng như CEO phải có trách nhiệm đối với tiền gửi, tài sản gửi của hàng vạn người dân và doanh nghiệp, CEO phải có trách nhiệm đối với việc kiểm soát và giám sát các khoản nợ đã cho vay…
Như vậy, có thể nói, CEO ngân hàng là nghề rất hấp dẫn và cũng rất rủi ro. Do đó, đã là CEO ngân hàng thì không thể nhàn nhã, thong dong, lơ là được, không có thời gian để hưởng thụ, mà luôn phải tập trung trên 100% năng lực để làm việc thì may ra mới không phải đối mặt với rủi ro.
Nói như vậy, cũng không loại trừ khả năng kể cả khi CEO đã làm việc với hơn 100% năng lực thì vẫn có thể gặp rủi ro vì nhiều nguyên nhân khác như sức khỏe, năng lực cá nhân, yêu cầu của cổ đông, HĐQT, CBCNV, khách hàng quá cao hay nguyên nhân từ nhận thức pháp luật… Và nếu xảy ra rủi ro đối với CEO trong trường hợp này thì phải xem đó là một tai nạn nghề nghiệp, ngoài ý muốn chủ quan.
Thùy Vinh thực hiện
Theo_Tin Nhanh Chứng Khoán
Cắt giảm nhiệt điện than phù hợp với xu hướng toàn cầu
Không phát triển thêm nhiệt điện than là thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế về cắt giảm khí phát thải, đẩy mạnh đầu tư năng lượng tái tạo.
Mới đây, thường trực Chính phủ đã có cuộc họp về Đề án điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011-2020 có xét đến năm 2030 (Điều chỉnh Quy hoạch điện VII) và dự án Điều chỉnh Quy hoạch phát triển ngành than Việt Nam đến năm 2020, có xét triển vọng đến năm 2030 (Điều chỉnh Quy hoạch than 60).
Tại cuộc họp này, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã khẳng định: "Cần phải rà soát, tính toán kế hoạch phát triển tất cả các nhà máy điện than, không phát triển thêm điện than". Bên cạnh đó, Thủ tướng cũng khẳng định Việt Nam thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế trong cắt giảm khí phát thải và đẩy mạnh đầu tư phát triển điện tái tạo.
Tuyên bố này của Thủ tướng đã phát đi tín hiệu mạnh mẽ về việc giảm bớt sự phụ thuộc vào nhiệt điện than từ phía chính phủ Việt Nam. Trong khi Việt Nam đã được biết đến là một trong những nước dẫn đầu thế giới về số lượng các nhà máy nhiệt điện than được quy hoạch xây mới với công suất dự kiến khoảng 60.000 MW, chỉ đứng sau Ấn Độ và Trung Quốc.
Đánh giá về tuyên bố này, bà Ngụy Thị Khanh, Giám đốc Trung tâm Phát triển Sáng tạo Xanh (GreenID) hoan nghênh cam kết của Thủ tướng Chính phủ về quyết định đưa đất nước khỏi sự phụ thuộc vào nhiệt điện than. Tuy nhiên, bà Khanh cũng cho rằng, trong Quy hoạch phát triển điện VII hiệu chỉnh, vẫn còn một số lượng đáng kể các nhà máy nhiệt điện than mới sẽ được xây dựng.
"Nếu Thủ tướng đã thận trọng xem xét và đưa ra quyết định giảm nhiệt điện than, GreenID hy vọng rằng chính phủ sẽ đánh giá lại một cách toàn diện tất cả các nhà máy điện than đã đề xuất và ban hành các chính sách để nhanh chóng đẩy mạnh sự phát triển của năng lượng tái tạo và sử dụng năng lượng hiệu quả. Song hành với những những nỗ lực này, tất cả các nhà máy điện than hiện có và đang có kế hoạch xây mới cần phải được áp dụng hệ thống kiểm soát ô nhiễm và công nghệ hiệu suất cao phù hợp với tiêu chuẩn và thực tiễn tốt của quốc tế", bà Khanh cho biết.
Việt Nam sẽ dần thay thế các nhà máy nhiệt điện than bằng các dự án nhiệt điện khí để kiểm soát và bảo vệ môi trường.
Việc Việt Nam giảm bớt nhiệt điện than sẽ là một "cú bồi" đối với ngành công nghiệp than toàn cầu vốn đang vật lộn để tồn tại. Số liệu do GreenID mới thu thập được đã cho thấy, nguồn nhiệt điện than của Trung Quốc đã giảm khoảng 4%/năm, dựa trên con số báo cáo suy giảm năm 2014. Nhập khẩu than của Ấn Độ giảm 15% trong giai đoạn từ tháng 4 đến tháng 12/2015.
Cho biết quan điểm của mình, ông Tim Buckley, Giám đốc Nghiên cứu Năng lượng Tài chính Australia, tại Viện Kinh tế năng lượng và Phân tích Tài chính nói rằng, thị trường nhiệt điện than ngày càng suy giảm do các xu hướng thay đổi ở Trung Quốc và Ấn Độ.
Do đó, việc Việt Nam - một trong những quốc gia dẫn đầu các nước Đông Nam Á về phát triển nhiệt điện than - đưa ra quyết định sẽ không tiếp tục phụ thuộc vào nguồn than nhập khẩu càng làm nổi rõ hơn sự thoái trào của ngành công nghiệp than toàn cầu.
"Quyết định của chính phủ Việt Nam nhằm đẩy mạnh việc chuyển đổi thị trường điện. Điều này cũng phù hợp với các chiến lược hiện đang được thực hiện bởi Trung Quốc và Ấn Độ. An ninh năng lượng là một trong những nhu cầu cấp bách nhất của bất kỳ quốc gia nào và thúc đẩy phát triển năng lượng gió, năng lượng mặt trời và sử dụng năng lượng hiệu quả chính là cách đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia từ nguồn tại chỗ", ông Buckley chỉ rõ.
Như vậy, bằng việc chỉ đạo giảm bớt sự phụ thuộc vào nhiệt điện than, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tái khẳng định lại cam kết tại Hội nghị chống biến đổi khí hậu - Paris 2015 (COP21) là đến năm 2030, Việt Nam phải giảm được 8% khí thải nhà kính.
"Phải kiểm soát, bảo vệ tốt vấn đề môi trường, nhất là kiểm soát chặt chẽ các nhà máy điện than; rà soát, tính toán kế hoạch phát triển tất cả các nhà máy điện than, không phát triển thêm điện than; tiến tới thay than bằng khí. Thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế trong cắt giảm khí phát thải. Thúc đẩy phát triển mạnh điện tái tạo, trong đó có xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích, thu hút đầu tư làm điện mặt trời, điện gió...", Thủ Tướng Chính phủ nêu rõ quan điểm.
Tới đây, Chính phủ dự kiến sẽ ban hành Quy Hoạch điện VII (QHĐ VII) hiệu chỉnh. Trong bản quy hoạch mới này, dự báo nhu cầu điện được kỳ vọng sẽ thấp hơn so với phiên bản trước, bám sát thực tế phát triển kinh tế, qua đó giảm tỷ trọng nhiệt điện than trong cơ cấu năng lượng trong tương lai. Ngoài ra, QHĐ VII hiệu chỉnh được dự kiến sẽ tăng tỉ trọng năng lượng tái tạo trong cơ cấu năng lượng của Việt Nam./.
Nguyễn Quỳnh
Theo_VOV
Bí kíp chọn đào đẹp miễn chê chơi Tết Bính Thân 2016 Chọn đào Tết đẹp không bị mông má và phù hợp với không gian sống là điều không phải ai cũng thuộc nằm lòng. Thị trường đào Tết 2016 năm nay đa chủng loại từ đào phai, đào bích đến bạch đào, với dạng cành cắm lọ, chậu cảnh, đào thế ... "hét" giá khác nhau, thậm chí có những loại "đội giá...