Cậu bé xấu xí thành Lưỡng quốc Trạng Nguyên
Vừa thấp vừa xấu, Mạc Đĩnh Chi rất chăm học và trở thành Trạng Nguyên, làm quan đứng đầu triều đình, ngoại bang phải nể phục về tài năng.
Mạc Đĩnh Chi (1286-1350) tự là Tiết Phu, quê ở làng Lũng Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Theo sử cũ, ông là người có ngoại hình xấu xí nhưng bù lại rất thông minh, ngay từ nhỏ đã nổi tiếng thần đồng. Vì nhà nghèo, Đĩnh Chi không thể đến lớp cùng bè bạn mà chỉ đứng ngoài nghe lỏm thầy giảng bài.
Năm 1304, đời vua Trần Anh Tông, triều đình mở khoa thi, Mạc Đĩnh Chi đỗ đầu, chiếm học vị Trạng nguyên khi mới hơn 20 tuổi. Thời xưa, người được chấm đỗ thi Đình phải vào yết kiến để vua xét dung mạo rồi mới quyết định cho đỗ hẳn hay không. Mạc Đĩnh Chi vào ra mắt, vua thấy tướng mạo ông xấu xí nên có ý không muốn cho đỗ trạng.
Biết ý vua, ông đã làm bài “Ngọc tỉnh liên phú” để gửi gắm chí khí của mình. Ông lấy hình ảnh hoa sen trong giếng ngọc đề cao phẩm chất trác việt và phong thái cao quý của một người khác thường, vượt xa người khác về mọi mặt; song không muốn a dua với người tầm thường để mong cho đời biết đến. Vua Trần Anh Tông xem xong khen là thiên tài rồi cho đậu.
Tượng Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi ở Chùa Dâu, Bắc Ninh. Ảnh: Wikipedia
Về việc này, sách Đại Việt sử ký tiền biên của Ngô Thì Sỹ viết: “Tháng 3 năm Giáp Thìn (1304)… thi học trò trong nước. Đĩnh Chi thông minh tuyệt vời nhưng dáng người vừa thấp vừa xấu. Đã thi đỗ, nhưng vua hiềm vì nét mặt xấu, ông bèn làm bài Ngọc tỉnh liên phú để tự ví mình…”.
Mạc Đĩnh Chi làm quan trải qua ba đời vua: Anh Tông (1293-1313), Minh Tông (1314-1328), Hiến Tông (1329-1340), làm đến chức Đại Liêu ban Tả bộc xạ (Tể tướng) đứng đầu triều.Trong cuộc đời làm quan, ông đã hai lần được cử đi sứ Trung Quốc. Với tài hùng biện, Mạc Đĩnh Chi dùng văn chương đấu trí với tất cả vua quan phương Bắc, khiến họ từ tức tối chuyển sang thán phục.
Tương truyền, một lần ông được vua Trần Anh Tông sai dẫn đầu đoàn nước Đại Việt đi sứ sang nhà Nguyên (Trung Quốc). Do trời mưa, đoàn sứ bộ đến cửa ải chậm một ngày so với hẹn trước. Cửa ải đóng chặt và bên ngoài có dán vế đối: “Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan” (Nghĩa là: Qua cửa ải trễ, cửa quan đóng, mời khách qua đường qua cửa quan).
Vế đối hiểm hóc ở chỗ có 4 chữ “quan” và 3 chữ “quá”. Mạc Đĩnh Chi và đoàn sứ giả biết đây là mưu kế của quan lại nhà Nguyên ra điều kiện để được mở cửa quan. Nếu đoàn sứ giả không đối được thì sẽ không vào được biên giới Trung Hoa. Như vậy sẽ ảnh hưởng tới thể hiện quốc gia.
Suy nghĩ một lát, ông ứng khẩu: “Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối” (Nghĩa là: Ra câu đối dễ, đối câu đối khó, mời tiên sinh đối trước). Vế đối lại cũng gồm mười một chữ, cũng dùng tới bốn chữ “đối” trong vế, còn chữ “tiên” được nhắc 2 lần. Ý đối khá chỉnh và ứng đối lại rất nhanh, khiến quan quân phải chịu mở cửa ải để Đĩnh Chi và đoàn sứ bộ đi qua.
Tới kinh đô nhà Nguyên, để “nắn gân” quan trạng Đại Việt, vua Nguyên lại đọc một vế đối: “Nhật hoả vân yên, bạch đán thiêu tàn ngọc thố”. Nghĩa là: Mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày thiêu cháy vừng trăng. Hàm ý là đại quốc đủ sức đốt cháy nước nhỏ.
Hiểu rõ dụng ý kẻ cả nước lớn, bóng gió đe dọa của Vua Nguyên, Mạc Đĩnh Chi ứng khẩu ngay: “Nguyệt cung tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô”. Nghĩa là: Trăng là cung, sao là đạn, chiều tới bắn rơi mặt trời. Vế đối vừa đúng niêm luật vừa tỏ rõ được khí phách của người dân nước Việt, không run sợ và sẵn sàng giáng trả lại kẻ thù.
Video đang HOT
Di tích lịch sử quốc gia Đền thờ Lưỡng quốc Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi ở Hải Dương. Ảnh: Wikipedia
Cũng trong thời gian đi sứ ở Trung Quốc, nhân có người dâng quạt lên, vua Nguyên đã yêu cầu sứ thần Đại Việt đề thơ về chiếc quạt. Bài thơ của Mạc Đĩnh Chi ý sắc nét, vua Nguyên xem xong, gật gù khen ngợi rồi đích thân hạ bút phong “Lưỡng quốc Trạng Nguyên”.
Không chỉ tài năng, Mạc Đỉnh Chi còn được đánh giá là một vị quan liêm khiết, đức độ. Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Đĩnh Chi là người liêm khiết, sống rất đạm bạc. Vua rất hiểu ông, sai người ban đêm đem 10 quan tiền bỏ vào nhà ông. Hôm sau Đĩnh Chi vào chầu, tâu vua hay chuyện đó. Vua bảo: “Không ai đến nhận, cho khanh lấy mà tiêu”.
Một giai thoại khác được giới nghiên cứu sử nhắc tới là chuyện Mạc Trạng nguyên có vợ là người Cao Ly (Triều Tiên). Trong thời gian đi sứ ở Trung Quốc, Mạc Đĩnh Chi kết thân với một sứ thần người Cao Ly. Ông đã từng qua thăm và ở lại Cao Ly nhiều tháng và được vị sứ thần làm mối cho người cháu gái để làm thiếp. Sau đó, người thiếp này đã sinh cho Mạc Đĩnh Chi 2 người con trai và một gái. Hai người con trai sau này cũng trở thành bậc kỳ tài ở Cao Ly.
Việc này, gia phả tộc Mạc có viết rằng: “Tương truyền trên đường về nước, nhận lời mời của sứ thần Cao Ly, Mạc Đĩnh Chi có ghé Bình Nhưỡng. Quý trọng một tài năng và nhân cách, sứ thần Cao Ly gả cháu gái yêu của ngài cho sứ thần Đại Việt làm vợ thiếp. Vì nặng tình người và mến cảnh đất nước Đại Hàn, Mạc Đĩnh Chi đã lưu lại Triều Tiên sinh hạ một dòng con bên đó. Mạc Đĩnh Chi lưu luyến giã biệt vợ con một mình lên đường trở về cố quốc”.
Theo bài viết “Người Triều Tiên đi bán sâm là hậu duệ của Mạc Đĩnh Chi” đăng trên An Nam tạp chí số 4 năm 1926, ông Lê Khắc Hòe cho biết có một người Triều Tiên xưng là hậu duệ của Mạc Đỉnh Chi qua Việt Nam để tìm kiếm dòng họ. Sau này, tác giả Vũ Hiệp sưu tập và đăng trên tạp chí Nghiên cứu Sử số 2, 1996 tại Sài Gòn.
Theo các nhà sử học, có thể nói, trong 46 Trạng nguyên của Việt Nam thời phong kiến thì Mạc Đĩnh Chi là một trong số ít người được dân chúng xưa nay khâm phục và ca tụng nhất. Có lẽ, cũng không có vị Trạng nguyên nào được người đời thêu dệt nên nhiều câu chuyện giai thoại giàu chất trí tuệ như Mạc Đĩnh Chi.
Hiện, đền Long Động thuộc xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương thờ Mạc Đĩnh Chi. Năm 1992, Nhà nước xếp hạng đây là di tích lịch sử quốc gia. Hàng năm, vào ngày 10/2 âm lịch các chi tộc họ Mạc từ mọi miền đất nước trở về thôn Long Động thăm đất cũ, bái yết tổ tiên và dự hội với nhân dân địa phương để tưởng nhớ đến vị Lưỡng quốc Trạng nguyên trong lịch sử Việt Nam.
Trung Sơn
Theo VNE
10 điểm đến khắp Việt Nam cho người hoài cổ
Làng cổ Đường Lâm (Hà Nội), phố cổ Hội An (Quảng Nam), nhà cổ Bình Thủy (Cần Thơ)... là những điểm du lịch nổi tiếng mang đậm dấu ấn cổ xưa.
Cầu Long Biên
Cầu Long Biên là cây cầu dây thép đầu tiên bắc qua hai bờ sông Hồng, Hà Nội, do người Pháp xây dựng vào thế kỷ 19. Cầu Long Biên từng bị ném bom nhiều lần trong chiến tranh, thậm chí hai trụ lớn đã bị cắt đứt, dù vậy công trình này đã được phục hồi để duy trì là một biểu tượng một Hà Nội cổ xưa. Nếu có dịp đi ngang cầu Long Biên, du khách sẽ được chiêm ngưỡng một cây cầu được xây dựng theo lối kiến trúc của Pháp, mang một vẻ đẹp mộc mạc nhưng tao nhã, bình dị và gần gũi.
Làng cổ Đường Lâm
Cổng ở làng cổ Đường Lâm (Hà Nội). Ảnh: Linh Hương
Làng cổ Đường Lâm tọa lạc tại thị xã Sơn Tây, Hà Nội, là địa điểm du lịch nổi tiếng bởi kiến trúc đặc trưng của vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Làng cổ Đường Lâm là số ít nơi vẫn giữ được nét đẹp của những ngôi làng xưa với sân đình, bến nước, cây đa, chùa, miếu... Ngôi làng có tổng cộng gần 1.000 ngôi nhà, được xây dựng từ thế kỷ 17 với lối kiến trúc cổ với những vật liệu truyền thống như đá ong, tre, nứa, ngói... Điểm đặc biệt của ngôi làng này chính là cây đa cổ thụ 300 năm tuổi, con đường vào làng được lát gạch, những bức tường vàng đã ngả màu thời gian, tạo nên khung cảnh vừa nên thơ, vừa cổ kính.
Chùa Dâu
Chùa Dâu thuộc xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội hơn 30 km. Chùa Dâu được xem là ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, được xây dựng từ năm 187 và hoàn thành năm 226, được công nhận là di tích lịch sử vào năm 1962. Trải qua nhiều lần tôn tạo chùa Dâu ngày nay mang lối kiến trúc thời Hậu Lê (thế kỷ 17-18) với bốn dãy nhà kết nối với nhau thành hình chữ nhật. Trong chùa thờ rất nhiều tượng của các vị Hộ pháp, La Hán, Bồ Tát, Thánh Tăng... và rất nhiều tượng phật. Giữa sân chùa còn có ngôi tháp Hòa Phong cao 17 m, thờ 4 vị thiên vương cai quan 4 phương trời đất.
Làng cổ Phước Tích
Làng cổ Phước Tích đã được Nhà nước xếp hạng di tích quốc gia. Ảnh: Trần Việt Anh
Làng cổ Phước Tích nép mình bên dòng sông Ô Lâu, cách trung tâm thành phố Huế 45 km. Làng cổ Phước Tích nổi tiếng bởi sự lưu giữ vẻ đẹp vẹn nguyên của làng quê miền Trung. Ngôi làng được quy hoạch theo không gian kiến trúc, chia làm ba xóm gắn liền nhau. Đến làng cổ này du khách sẽ cảm nhận được vẻ thơ mông của làng quê miền Trung, vẻ thanh bình qua những ngôi nhà, khoảng sân hay chiếc cổng rào. Làng cô Phước Tích là nơi ghé thăm thường xuyên của du khách bởi những giá trị của nó vẫn vẹn nguyên với thời gian.
Làng cổ Phong Nam
Thuộc xã Hòa Châu, Huyện Hòa Vang, TP Đà Nẵng, làng cổ Phong Nam nổi tiếng với các công trình kiến trúc cổ như nhà thờ, đình, miếu, chùa... và giữ được nét đặc trưng của làng quê Việt truyền thống. Làng cổ Phong Nam còn được biết đến với nhiều lễ hội tôn vinh nghề nông, lễ hội dành cho trẻ chăn trâu hay những giai thoại về tài năng của Ông Ích Khiêm. Đến đây du khách sẽ cảm nhận được vẻ đẹp thanh bình và không khí trong lành của làng quê Việt với cánh đồng lúa bát ngát bao quanh, con đường làng trải dài với những hàng tre rợp bóng.
Phố cổ Hội An
Phố cổ Hội An cách thành phố Đà Nẵng khoảng 30 km về phía Nam. Nơi đây từng là một thương cảng sầm uất, nơi giao lưu mua bán của những thuyền buôn Trung Quốc, Nhật Bản và phương Tây vào thế kỷ 17-18. Năm 1999 Phố cổ Hội An được UNESSCO công nhận là di sản văn hóa thế giới bởi lối kiến trúc đậm nét truyền thống và những giá trị văn hóa phi vật thể. Ngày nay, Phố cổ Hội An vẫn giữ được hồn xưa tích cũ với những ngôi nhà cổ nhuộm màu rêu phong phủ kín. Đến đây du khách sẽ được chiêm ngưỡng một quần thể di tích gồm nhiều nhà ở, đình chùa, miếu, chợ... và những cửa hàng bán lồng đèn vô cùng đẹp mắt.
Cầu Tràng Tiền
Cầu Tràng Tiền bao lâu này là biểu tượng không thể thanh thế của cố đô Huế. Ảnh: Tran Liet Hung
Cầu Tràng Tiền bắc qua sông Hương, là một trong những điểm đến hấp dẫn của thành phố Huế xinh đẹp. Cầu Tràng Tiền được thiết kế theo lối kiến trúc Gothic gồm mười hai nhịp với màu trắng bàng bạc làm cho cây cầu thêm đẹp huyền ảo. Nơi đây là điểm đến lý tưởng của du khách và những đôi trai gái yêu nhau vào dịp cuối tuần để lắng nghe dòng sông Hương ru khúc hát bằng những dòng chảy êm đềm và ngắm cầu Tràng Tiền xinh đẹp dù đã qua bao mùa biến cố.
Nhà thờ Mằng Lăng
Nhà thờ Mằng Lăng tọa lạc bên bờ sông Kỳ Lộ, thuộc huyện Tuy An tỉnh Phú Yên. Với tuổi đời gần 120 năm, đây là một trong những nhà thờ lâu đời nhất Việt Nam. Nhà thờ Mằng Lăng được xây dựng theo lối kiến trúc Gothic, màu xanh xám kết hợp cùng nhiều hoa văn giản dị. Nhà thờ tuy nhỏ nhưng khuôn viên rộng và luôn rợp bóng mát cây xanh. Nơi đây còn là nơi lưu trữ cuốn sách đầu tiên in bằng tiếng Việt, là một điểm đến thú vị cho du khách yêu thích lối kiến trúc xưa cũ.
Nhà cổ Bình Thủy
Nhà cổ Bình Thủy được nhiều người ghé thăm khi tới Cần Thơ. Ảnh: Ái Nam
Nhà cổ Bình Thủy tọa lạc trên đường Bùi Hữu Nghĩa, phường Bình Thủy, TP Cần Thơ. Nhà cổ này được xây từ 1870 với 5 gian 2 chái, mang đậm lối kiến trúc Pháp với nhiều họa tiết đẹp mắt. Điểm nổi bật của ngôi nhà là những hàng cột được làm bằng gỗ lim đen bóng, hệ thống xà kèo được chạm trổ tinh vi, gạch lát nền có hoa văn đẹp mắt. Nhà cổ Bình Thủy là một trong những ngôi nhà cổ lớn và đẹp nhất Cần Thơ, thể hiện lối sống truyền thống của người dân Nam bộ ngày xưa.
Nhà trăm cột Long An
Nhà trăm cột toạ lạc tại ấp Cầu Ngang, xã Long Hựu Đông, huyện Cần Đước, tỉnh Long An, được xây dựng vào năm 1901-1903 theo lối kiến trúc thời Nguyễn và mang đậm phong cách Huế. Ngôi nhà có tổng cộng 120 cột gồm 3 gian, 2 chái và được điêu khắc tinh xảo được làm hoàn hoàn bằng gỗ và lợp ngói. Đến đây, du khách sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của ngôi nhà cổ đã bạc màu thời gian nhưng lối kiến trúc và giá trị thì chưa bao giờ là xưa cũ.
Theo ngôi sao
Cô gái hái dâu thành người phụ nữ quyền lực nhất sử Việt Xuất thân từ một cô gái hái dâu quê mùa, Ỷ Lan đã trở thành một trong những người phụ nữ quyền lực nhất trong lịch sử Việt Nam khi 2 lần thay vua lo việc triều chính, giúp đất nước hưng thịnh. Ỷ Lan tên thật là Lê Thị Yến (cũng có sách ghi là Lê Thị Yến Loan hay Lê Thị...