Cắt lớp bộ máy an ninh và tình báo thời Saddam Hussein
Bộ máy an ninh và tình báo của Iraq là công cụ kiểm soát nhà nước quan trọng nhất dưới thời Saddam Hussein, cũng là nền tảng duy trì sự cai trị của ông.
Điều quan trọng hiện thời là phải hiểu về loại hình, bản chất và quy mô của những tổ chức an ninh dưới chế độ Saddam vì chúng đóng vai trò quan trọng trong những nỗ lực phủ nhận và lừa dối của nhà nước đối với các chương trình vũ khí của nước này.
Ngoài ra những cơ quan này có vai trò chỉ đạo và kiểm soát các hệ thống vũ khí của Iraq cũng như việc mua sắm chúng. Rõ ràng, bất kỳ tranh luận nào về các chuyến thị sát hay thay đổi chế độ ở Iraq đều phải tính đến những cơ quan này. Có 5 cơ quan chính tạo nên bộ máy an ninh của nhà nước Iraq bao gồm al-Amn al-Khas (An ninh đặc biệt), al-Amn al-’Amm (An ninh tổng hợp), al-Istikhbarat (Tình báo quân đội), al-Mukhabarat (Tình báo tổng hợp) và al-Amn al-’Askari (An ninh quân sự). Cùng với 5 cơ quan đó là lực lượng Vệ binh cộng hòa đặc biệt (SRG). Những thực thể này tạo ra một mê cung rộng khắp, tinh vi và phức tạp của các tổ chức an ninh với nhiều đơn vị quân sự và tình báo hoạt động độc lập tràn ngập mọi tầng lớp trong xã hội Iraq, bảo vệ cho tổng thống và chính quyền của ông ta.
Ảnh tình báo về nhà kho của Cơ quan an ninh đặc biệt Iraq (Al-Amn al-Khas) nằm dọc theo sông Tigris ở Baghdad. Ảnh nguồn: Global Security, 25/3/2003.
Quyền tài phán của các cơ quan này được thiết kế sao cho trùng lắp nhằm duy trì sự cạnh tranh, và để đảm chắc không cá nhân thực thể an ninh nào quá mạnh để đe dọa Saddam. Trách nhiệm tập thể của những cơ quan này là bảo vệ tổng thống; duy trì an ninh nội bộ bằng cách chống lại sự bất đồng chính kiến trong nước bao gồm cả đảo chính và quần chúng nổi dậy; ngăn ngừa những mối họa bên ngoài đối với chế độ; cũng như tiến hành các hoạt động nước ngoài.
An ninh đặc biệt (Al-Amn al-Khas)
Al-Amn al-Khas (An ninh đặc biệt), được thành lập ngay trong thời gian xảy ra cuộc chiến tranh Iran-Iraq đóng vai trò như một tổ chức siêu bí mật, và nổi lên như là cơ quan quyền lực nhất trong bộ máy an ninh Iraq. Thời điểm năm 1982, vai trò của al-Amn al-’Amm là cung cấp cận vệ cho Tổng thống sau một nỗ lực ám sát hụt nhắm vào Saddam Hussein. Hussein Kamil, người em họ, con rể và là Bộ trưởng Công nghiệp hóa quân đội của Saddam Hussein, là người có công đầu trong việc sáng lập cơ quan này, cũng như chỉ tuyển chọn các điệp viên tận tụy và trung thành từ các cơ quan al-Amn al-’Amm, al-Istikhbarat và al-Mukhabarat để phục vụ trong đơn vị tình báo siêu tinh hoa. Giám đốc hiện tại của al-Amn al-Khas là con trai của Saddam Hussein: Qusay Hussein, người cũng nắm quyền kiểm soát Vệ binh cộng hòa đặc biệt (SRG), trực thuộc Văn phòng An ninh đặc biệt của SRG.
Trách nhiệm của al-Amn al-Khas có thể được phân loại đại khái như sau: 1) Cung cấp an ninh cho Tổng thống trong mọi thời điểm, đặc biệt là trong những chuyến công du và họp hành công vụ; 2) Đảm bảo an toàn cho tất cả các cơ sở thuộc về Tổng thống như tư dinh và văn phòng; 3) Giám sát các cơ quan tình báo và an ninh khác; 4) Theo dõi các bộ trưởng chính phủ và giới lãnh đạo của các lực lượng vũ trang; 5) Giám sát các hoạt động an ninh nội bộ chống lại những thế lực đối lập người Kurd và Shi’a; 6) Mua công nghệ và vũ khí nước ngoài; 7) Đảm bảo cho các ngành công nghiệp quân sự chủ lực của Iraq; 8) Chỉ đạo những hoạt động che đậy các chương trình WMD của Iraq. Khác với 4 tổ chức an ninh lớn còn lại, al-Amn al-Khas đóng vai trò là cơ quan tình báo nội bộ nhất của chế độ Saddam, hoạt động như là trung tâm đầu não cho các cơ quan an ninh của Saddam.
Các thành viên trong cơ quan này được hưởng đời sống tiêu chuẩn cao hơn so với đồng nghiệp từ các cơ quan khác. Theo các đối tượng sống lưu vong và đào tẩu người Iraq thì An ninh đặc biệt đã gieo rắc nhiều cung bậc sợ hãi trong mọi giai tầng của xã hội Iraq. Trong khi bổn phận chính là bảo vệ sự an nguy của tổng thống, cơ quan này còn quản lý các hành động của Vệ binh cộng hòa và Vệ binh cộng hòa đặc biệt. Al-Amn al-Khas bị buộc tội do thám al-Mukhabarat, al-Istikhbarat, al-Amn al-’Askari, hay nói chung thì cơ quan này chuyên về do thám các điệp viên Iraq. Trong suốt thời kỳ chiến tranh Iran – Iraq, Al-Amn al-Khas do thám các hoạt động của al-Istikhbarat.
Nó đóng vai trò là thực thể điều phối trung tâm giữa Ủy ban công nghiệp – quân sự, al-Istikhbarat và al-Mukhabarat, cũng như vai trò của quân đội trong việc mua sắm các thành phần cần thiết trong chương trình WMD của Iraq. Trong cuộc chiến tranh vùng Vịnh năm 1991, An ninh đặc biệt được giao trọng trách che giấu tên lửa SCUD. Dựa trên những hoạt động quá khứ, có lẽ An ninh đặc biệt sẽ tiếp tục những chức năng này trong tương lai.
Video đang HOT
Ông Saddam Hussein tập sử dụng súng phóng lựu (RPG) trong bức ảnh không ghi ngày tháng được chụp trong cuộc chiến tranh Iraq-Iran. Ảnh nguồn: Reuters.
An ninh tổng hợp (Al-Amn al-’Amm)
Al-Amn al-’Amm (An ninh tổng hợp) là cơ quan an ninh lâu đời nhất của Iraq, được thành lập từ năm 1921 trong thời kỳ Ủy trị của Anh. Al-Amn al-’Amm thực chất là lực lượng cảnh sát an ninh chính trị. Các hoạt động của cơ quan này bao gồm: 1) Phát hiện những thành phần bất đồng chính kiến trong đại chúng Iraq; 2) Phản ứng trước các hành vi tội phạm chính trị; 3) Ngăn ngừa hoạt động tội phạm kinh tế. Lãnh đạo hiện thời của cơ quan này là Rafi Abd al-Latif Talfah. Al-Amn al-’Amm giám sát đời sống thường nhật của người dân, tạo ra sự hiện diện rộng khắp trong nước. Tổng hành dinh của al-Amn al-’Amm tọa lạc ở Baghdad, hướng dẫn hành động của các nhánh al-Amn trong mỗi chính quyền Iraq. Saddam Hussein cung cấp cho cơ quan này một cánh bán quân sự có tên là Quwat al-Tawari’ (Các lực lượng khẩn cấp) sau chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 để củng cố luật pháp và trật tự.
Tình báo Quân đội (al-Istikhabarat al-’Askariyya)
Mudiriyyat al-Istikhabarat al-’Askariyya al-’Amma (Tổng cục tình báo Quân đội) được sáng lập năm 1932 trong thời gian Iraq giành độc lập. Cơ quan này chịu các trách nhiệm bao gồm: 1) Thực hiện trinh sát chiến lược và chiến thuật nhắm vào chế độ thù địch chống Iraq; 2) Đánh giá mối họa của bản chất quân đội đối với Iraq; 3) Theo dõi quân đội Iraq và đảm bảo lòng trung thành của quân đoàn sĩ quan; 4) Duy trì mạng lưới người cung cấp tin ở Iraq và hải ngoại, bao gồm viên chức nước ngoài và tình báo quân sự; 5) Bảo vệ các cơ sở công nghiệp – quân sự.
Các chức năng chính của tình báo quân sự là đảm bảo lòng trung thành của quân đội và thu thập tình báo quân đội, song cũng bao gồm các hoạt động hải ngoại bao gồm ám sát các phần tử bất đồng chính kiến với chế độ. Tình báo quân đội chịu trách nhiệm duy trì mạng lưới người cung cấp tin bao gồm các điệp viên hoạt động ở Jordan, Israel, Gaza và Bờ Tây, các nước Vùng Vịnh, Ai Cập, Syria, Sudan, Thổ Nhĩ Kỳ, Yemen, cũng như quản lý một mạng lưới tình báo con người khá lớn ở Iran. Sau cuộc đột kích của Israel vào cơ sở nghiên cứu hạt nhân Osiraq của Iraq vào năm 1981, al-Istikhbarat cầu viện bên ngoài nhờ giúp đỡ. Trong giai đoạn 1982 đến 1985, al-Istikhbarat đã được hỗ trợ để che giấu và bảo vệ các kỹ thuật quan trọng trong các cơ sở và chương trình quân đội của Iraq, cung như những phương pháp đánh lừa trinh sát chiến lược.
Ông Saddam Hussein (giữa) chụp cùng hai người con trai Uday (trái) và Qusay (phải) trong thời hoàng kim của mình. Ảnh nguồn: Reuters.
Cục tình báo Iraq (al-Mukhabarat)
Trong khi al-Amn al-’Amm và al-Istikhbarat được thành lập trong thời kỳ chế độ quân chủ của Iraq thì al-Mukhabarat (Cục tình báo Iraq) lại nổi lên từ ngay trong đảng Ba’th Xã hội chủ nghĩa Arab của Iraq. Giám đốc hiện tại của al-Mukhabarat là Tahir Abd al-Jalil al-Habbush. Al-Mukhabarat được chia thành 2 bộ phận lần lượt chịu các trách nhiệm các hoạt động nội bộ và quốc tế. Các hoạt động nội bộ của cơ quan này bao gồm điều phối thông qua các văn phòng tỉnh, trong khi những hoạt động quốc tế thường được tiến hành từ các đại sứ quán Iraq.
Những hoạt động nội bộ cụ thể của cơ quan bao gồm: 1) Theo dõi đảng Ba’th cũng như các đảng phái chính trị khác; 2) Theo dõi những tổ chức cơ sở khác bao gồm thanh niên, phụ nữ và các nhóm công đoàn; 3) Đàn áp người Shi’a, người Kurd và các thế lực chống đối khác; 4) Thực hiện phản gián; 5) Nhắm mục tiêu đe dọa các cá nhân và nhóm người trong lãnh thổ Iraq; 6) Giám sát các đại sứ quán nước ngoài ở Iraq; 6) Giám sát người ngoại quốc ở Iraq; 7) Duy trì mạng lưới những người chỉ điểm nội bộ.
Mặt khác, những hoạt động quốc tế của Cục tình báo Iraq bao gồm: 8) Giám sát các đại sứ quán Iraq ở nước ngoài; 9) Thu thập tình báo hải ngoại; 10) Hỗ trợ các nhóm chống đối trong các chính phủ thù địch; 11) Tiến hành các hoạt động phá hoại, lật đổ và khủng bố chống lại các nước láng giềng thù địch như Syria và Iran; 12) Ám sát những phần tử chống đối bên ngoài lãnh thổ Iraq; 13) Xâm nhập vào những nhóm chống đối người Iraq ở nước ngoài; 14) Cung cấp tin giả và các nỗ lực khai thác hoặc sử dụng tiếng Arab cùng các phương tiện truyền thông khác; 15) Duy trì mạng lưới người chỉ điểm quốc tế bằng cách dùng những tổ chức nổi tiếng, chẳng hạn như Liên minh sinh viên Iraq.
An ninh quân đội (al-Amn al-’Askari)
Thuở ban đầu nó là một phần của Cục đặc biệt Istikhabarat, đến năm 1992, Saddam Hussein đã thành lập al-Amn al-’Askari như một thực thể độc lập chịu trách nhiệm báo cáo trực tiếp cho Phủ Tổng thống thay vì phải qua Bộ Chỉ huy quân sự hoặc Bộ Quốc phòng. Đơn vị này được thành lập sau khi Saddam phát hiện những xào xáo trong quân đội. Người đứng đầu Al-Amn al-Askari là Thabet Khalil al-Tikriti. An ninh quân đội đảm nhiệm các trọng trách như: 1) Phát hiện và chống bất đồng chính kiến ngay trong các lực lượng vũ trang Iraq; 2) Điều tra những hành vi tham nhũng và biển thủ ngay trong các dịch vụ vũ trang; 3) Giám sát mọi thông tin và các đơn vị trong các lực lượng vũ trang.
Vệ binh cộng hòa đặc biệt (Al-Haris al-Jamhuri al-Khas)
Al-Haris al-Jamhuri al-Khas (Vệ binh cộng hòa đặc biệt hay còn có tên gọi khác là Các lực lượng bảo vệ đặc biệt vệ binh cộng hòa) được mở rộng thần tốc trong cuộc chiến tranh Iran-Iraq. Cơ quan này được thành lập nhằm hoạt động như một người bảo vệ pháp quan sau cuộc chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991. Qusay Hussein đứng đầu đơn vị này trong đó cung cấp cơ chế bảo vệ an ninh cho mọi địa điểm thuộc về Tổng thống bao gồm các văn phòng làm việc và tư dinh cá nhân cũng như tháp tùng Saddam Hussein khi ông đi lại trong nước.
Vệ binh cộng hòa đặc biệt (SRG) thường có khoảng 15.000 người, nhưng theo một số ước tính thì đơn vị này có khoảng 13 tiểu đoàn với quân số lên tới 26.000 người. SRG được tổ chức thành 4 lữ đoàn với 3 lữ đoàn canh giữ các tuyến đường Bắc, Nam và Tây vào Baghdad. Thêm nữa, đơn vị này còn có bộ chỉ huy pháo binh và phòng không. Al-Amn al-Khas thực hiện quyền kiểm soát hoạt động đối với SRG.
Duy trì động lực liên minh
Tăng cường hơn nữa quan hệ kinh tế và quốc phòng với Mỹ - đồng minh quan trọng nhất - là mục tiêu trọng tâm chuyến thăm cấp nhà nước 7 ngày (từ ngày 8/4) của Thủ tướng Fumio Kishida tới Washington lần này.
Tổng thống Mỹ Joe Biden (trái) và Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio tại cuộc họp báo sau hội nghị thượng đỉnh ba bên Mỹ - Nhật - Hàn ở Trại David, bang Maryland, Mỹ, ngày 18/8/2023. Ảnh: Kyodo/TTXVN
Tuyên bố của Nhà Trắng cho biết chuyến thăm sẽ nêu bật sức mạnh bền bỉ của mối quan hệ đối tác liên minh, cam kết không lay chuyển của Mỹ với Nhật Bản và vai trò tiên phong ngày càng tăng của Nhật Bản trên trường quốc tế, cũng như những nỗ lực nhằm củng cố mối quan hệ chính trị, an ninh, kinh tế và giao lưu nhân dân.
An ninh, quốc phòng và thương mại sẽ là chương trình nghị sự bao trùm, trong đó hợp tác an ninh quốc phòng sẽ chiếm vị trí đáng kể. Tái cơ cấu và mở rộng chức năng của Bộ chỉ huy quân sự Mỹ tại Nhật Bản là một trong những chủ đề hàng đầu trong hợp tác quốc phòng. Đây được đánh giá sẽ là nỗ lực nâng cấp lớn nhất liên minh an ninh Mỹ - Nhật trong nhiều thập niên qua. James Schoff, chuyên gia Quỹ Hòa bình Sasakawa, nhận định điều này sẽ mở ra cho hai bên "hướng đi cần thiết để thúc đẩy những điều chỉnh kịp thời hướng tới thành lập một bộ chỉ huy tác chiến chung mới vào tháng 3 năm sau". Theo ông, mặc dù việc tái cơ cấu sẽ không tạo ra một mệnh lệnh kết hợp - như giữa Mỹ và Hàn Quốc - nhưng sẽ cho phép chia sẻ thông tin liền mạch hơn và ra quyết định hợp tác, qua đó tăng hiệu quả các chuỗi chỉ huy hiện có. Sau khi Nhật Bản nới lỏng quy định xuất khẩu thiết bị quốc phòng, Tổng thống Mỹ Joe Biden và Thủ tướng Kishida dự kiến sẽ tiến thêm một bước nữa trong lĩnh vực này bằng việc thảo luận về thành lập một hội đồng quốc phòng chung nhằm nghiên cứu các mặt hàng xuất khẩu tiếp theo.
Kể từ khi nhậm chức năm 2021, Thủ tướng Kishida đã thực hiện thay đổi sâu rộng trong lĩnh vực phòng thủ của Tokyo, tăng chi tiêu quốc phòng lên khoảng 2% Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vào năm 2027 và củng cố năng lực phản công. Ông đã định vị Nhật Bản là đối tác của Mỹ không chỉ ở châu Á mà còn trên phạm vi toàn cầu, cho rằng việc xây dựng khả năng răn đe và phản ứng của Nhật Bản cũng là điều "thiết yếu" đối với Mỹ.
Ở chiều ngược lại, quan hệ đối tác với Nhật Bản từ lâu đã là trọng tâm trong chiến lược của Mỹ ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và mối quan hệ quốc phòng này đã được mở rộng hơn nữa dưới thời Thủ tướng Kishida.
Chuyên gia Mireya Solís, tác giả cuốn sách "Sự lãnh đạo thầm lặng của Nhật Bản: Định hình lại Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương", nhận định "Mỹ đang cạn kiệt nguồn lực và vốn ngoại giao" và "Washington có mong muốn đảm bảo xây dựng được một liên minh phù hợp với mục đích" nếu xảy ra xung đột ở châu Á. Chính vì vậy, hợp tác tiềm năng của Nhật Bản với Mỹ, Australia và Anh trong khuổn khổ quan hệ đối tác an ninh AUKUS cũng là một chủ đề được thảo luận lần này. Các nguồn thạo tin cho biết hai nhà lãnh đạo sẽ đề cập đến các cách thức tăng cường sản xuất chung thiết bị quốc phòng và thúc đẩy các biện pháp phát triển năng lực quân sự tiên tiến trong bối cảnh có nhiều quan ngại năng lực công nghiệp quốc phòng của Mỹ đang bị kéo căng.
Một điểm đáng chú ý nữa trong chương trình nghị sự quốc phòng-an ninh là hội nghị thượng đỉnh ba bên đầu tiên giữa hai nhà lãnh đạo Mỹ và Nhật Bản với Tổng thống Philippines Ferdinand Marcos Jr. vào ngày 11/4 tới. Cả Washington và Tokyo đều đang tìm cách tăng cường quan hệ quốc phòng và kinh tế với Manila. Giới chuyên gia dự đoán cuộc họp thượng đỉnh ba bên đầu tiên này sẽ mở đường cho các cuộc tuần tra hải quân chung ba bên ở Biển Đông vào cuối năm nay.
Song song với hợp tác quốc phòng, Thủ tướng Nhật Bản chắc chắn sẽ đề cập vấn đề thương mại, mà một trong những trở ngại là những chỉ trích tại Mỹ liên quan đến thỏa thuận Nippon Steel mua US Steel với giá 14,1 tỷ USD. US Steel từng là công ty quyền lực nhất thế giới và là biểu tượng cho vị thế cường quốc công nghiệp của Mỹ. Vì vậy, chính phủ liên bang phải xem xét các tác động kinh tế và chính trị của thỏa thuận này. Phó Chủ tịch Viện Chính sách xã hội châu Á và cựu Đại diện Thương mại Mỹ tại châu Á Wendy Cutler cho rằng thỏa thuận này, nếu không được thông qua, có thể làm phức tạp thêm mối quan hệ kinh doanh giữa hai nước.
Các nguồn thạo tin cho biết Thủ tướng Kishida sẽ thăm một nhà máy của Toyota Motor Corp. đang được xây dựng ở North Carolina. Chuyến thăm được cho là lời nhắc nhở gửi tới nước Mỹ về sự đóng góp của các công ty Nhật Bản đối với nền kinh tế số 1 thế giới. Thủ tướng Kishida nhấn mạnh: "Điều quan trọng là phải chứng tỏ rằng Nhật Bản là quốc gia đầu tư lớn nhất thế giới vào Mỹ. Các công ty Nhật Bản đang hỗ trợ việc làm ở Mỹ và tiềm năng đầu tư thêm vào Mỹ trong những năm tới là rất lớn".
Hai nhà lãnh đạo dự kiến sẽ xác nhận sự hợp tác trong nhiều lĩnh vực bao gồm an ninh, không gian, chất bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, công nghệ khoa học lượng tử, mạng di động thế hệ thứ năm, cũng như sẽ đồng ý thiết lập một "đối thoại chính sách" cấp bộ trưởng để thúc đẩy sản xuất điện gió nổi ngoài khơi.
Chuyên gia James Schoff nhận định: "Mối quan hệ Mỹ - Nhật đang ở mức cao nhất mọi thời đại". Theo ông, chiều rộng và chiều sâu của hợp tác song phương tiếp tục mở rộng.
Tuy nhiên, không thể phủ nhận thực tế chuyến thăm diễn ra vào thời điểm đầy thách thức đối với cả hai nhà lãnh đạo. Thủ tướng Nhật Bản đang phải vật lộn với tỷ lệ tín nhiệm ảm đạm do vụ bê bối gây quỹ của đảng Dân chủ tự do (LDP) cầm quyền và giá cả trong nước tăng mạnh. Tổng thống Biden gần như chắc chắn đối mặt với cuộc tái đầu căng thẳng vào tháng 11, làm tăng khả năng xảy ra một sự thay đổi chính sách nếu cựu Tổng thống Donald Trump trở lại Nhà Trắng vào năm tới.
Giới chuyên gia đánh giá với quan điểm mang tính giao dịch của ông Trump đối với các liên minh quốc tế, các quan chức Nhật Bản cần phải chuẩn bị cho những thay đổi có thể xảy ra trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Vì vậy, Giáo sư quan hệ quốc tế tại Viện nghiên cứu Chính sách Quốc gia ở Tokyo, Narushige Michishita, cho rằng mục tiêu chuyến thăm của Thủ tướng Nhật Bản đến Mỹ còn là giảm thiểu những rủi ro tiềm ẩn trong trường hợp cựu Tổng thống Trump trở lại Nhà Trắng.
Thủ tướng Kishida có kế hoạch sử dụng chuyến thăm cấp nhà nước của mình như một nền tảng để khẳng định chiều sâu của quan hệ Nhật Bản - Mỹ, đồng thời duy trì động lực của liên minh. Tuy nhiên, trong bối cảnh cả hai nhà lãnh đạo đều phải đối mặt với những thách thức, chưa rõ động lực này có thể duy trì được trong bao lâu.
Ai Cập: Tổng thống El-Sisi tuyên thệ nhậm chức nhiệm kỳ 3 Theo phóng viên TTXVN tại Cairo, ngày 2/4, tại trụ sở Quốc hội ở Thủ đô Hành chính Mới, Tổng thống Ai Cập Abdel-Fattah El-Sisi đã tuyên thệ nhậm chức nhiệm kỳ 3, tiếp tục nắm quyền điều hành đất nước đến giữa năm 2030, trong bối cảnh Ai Cập đang đối mặt với nhiều khó khăn về kinh tế do thiếu hụt...