Căng thẳng Nga-Ukraine gây thêm bất ổn cho nền kinh tế châu Á
Căng thẳng Nga-Ukraine đang gây thêm bất ổn cho nền kinh tế châu Á, vốn đã phải đối mặt với sự gia tăng số ca mắc COVID-19 do biến thể Omicron lây lan mạnh và phải hứng chịu các điều kiện tài chính thắt chặt hơn.
Giám đốc phụ trách khu vực châu Á-Thái Bình Dương của IMF, ông Changyong Rhee. Ảnh: AFP
Trong một cuộc phỏng vấn với Tân Hoa xã mới đây, ông Changyong Rhee, Giám đốc Vụ châu Á và Thái Bình Dương thuộc Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), cho biết hiện thể chế tài chính này đang xác định tác động của căng thẳng Nga-Ukraine qua nhiều kênh khác nhau nhưng vẫn chưa có con số chính xác. Ông lưu ý rằng kênh quan trọng nhất có sức tác động đến nền kinh tế châu Á là giá hàng hóa, đặc biệt là giá dầu. Xung đột Nga-Ukraine càng kéo dài càng khiến giá dầu biến động. Với sự biến động của giá dầu, tác động đến nền kinh tế châu Á có thể thay đổi “khá nhiều”.
The ông Rhee, Indonesia, quốc gia xuất khẩu nhiều mặt hàng, sẽ ít bị ảnh hưởng vì cuộc khủng hoảng hiện nay, trong khi Hàn Quốc, Nhật Bản và Ấn Độ vốn phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu dầu sẽ chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực. Ông kêu gọi chính phủ các nước châu Á giảm trợ cấp nhiên liệu, vốn dường như mang lại lợi ích cho những người có thu nhập cao hơn khi họ tiêu thụ nhiều năng lượng hơn, cũng như áp dụng các chính sách tài khóa có mục tiêu để hỗ trợ các hộ gia đình nghèo – những người cũng phải đối phó với giá lương thực cao hơn trong bối cảnh khủng hoảng.
Ông Rhee cũng lưu ý ngoài cuộc xung đột tại Ukraine, sự lây lan mạnh mẽ của biến thể Omicron trên khắp châu Á và lãi suất cao hơn do Mỹ bình thường hóa chính sách tiền tệ cũng là những trở ngại đối với tăng trưởng kinh tế của khu vực. Việc Ngân hàng Dự trữ liên bang Mỹ (FED) tăng lãi suất có thể thúc đẩy làn sóng rút vốn và tăng chi phí tài chính, làm trầm trọng thêm vấn đề nợ của châu Á, vốn hiện chiếm gần 40% tổng nợ toàn cầu. Nợ tăng lên khá nhiều và lãi suất cao chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến chi phí đi vay và chi phí tài chính, thậm chí có thể làm đình trệ nền kinh tế.
Dự đoán về tác động tiềm tàng của xung đột tại Ukraine đối với quá trình toàn cầu hóa, ông Rhee, cùng với các đồng nghiệp của mình, đã viết trong một trang blog của IMF gần đây rằng điều này có thể làm thay đổi cơ bản trật tự kinh tế và địa chính trị toàn cầu nếu trao đổi thương mại trong lĩnh vực năng lượng có sự chuyển dịch, chuỗi cung ứng được sắp xếp lại, mạng lưới thanh toán bị phân mảnh và các quốc gia xem xét lại việc dự trữ ngoại hối.
Video đang HOT
Theo bài viết, căng thẳng địa chính trị gia tăng làm tăng thêm rủi ro về kinh tế bị phân mảnh, đặc biệt là đối với thương mại và công nghệ. Ông Rhee bày tỏ hy vọng tình hình sẽ không diễn ra theo hướng đó, nhấn mạnh Nga và Ukraine phải giải quyết căng thẳng hiện nay một cách nhanh chóng, đảm bảo quá trình toàn cầu hóa có thể tiếp tục. Lưu ý rằng sự thụt lùi đối với toàn cầu hóa sẽ đồng nghĩa với chi phí cao hơn và dòng chảy thương mại bị thu hẹp hơn, ông Rhee nhấn mạnh rằng thương mại là một động lực tuyệt vời cho tăng trưởng, bởi lẽ “càng nhiều người trao đổi, giao dịch thì càng có nhiều ý tưởng và công nghệ được phát triển”.
Fed tăng lãi suất tác động thế nào đến xu hướng lãi suất của Việt Nam?
Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) vừa chính thức thông báo nâng lãi suất tham chiếu thêm 0,25 điểm%, lên quanh mức 0,25 - 0,5%; đồng thời phát tín hiệu có thể thêm 6 lần tăng lãi suất nữa từ đây đến cuối năm 2022.
Trụ sở Ngân hàng Dự trữ liên bang Mỹ (FED) ở Washington, DC. Ảnh: THX/TTXVN
Đây là lần đầu tiên Fed nâng lãi suất kể từ năm 2018, do lo ngại lạm phát tăng cao kỷ lục. Giới phân tích nhận định, dù sự kiện này có thể khiến dòng vốn rút ra khỏi các thị trường mới nổi, nhưng mức độ ảnh hưởng tới Việt Nam là không lớn, ít tác động đến xu hướng lãi suất trong năm nay.
Trong báo cáo dành cho nhà đầu tư mới đây, các chuyên gia của Công ty Chứng khoán ACB (ACBS) cho biết, tiếp tục giữ quan điểm việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước trong năm 2022 để không bị nhiều tác động lớn đối với việc Fed tăng lãi suất. Ngân hàng Nhà nước vẫn giữ xu hướng tiếp tục mở rộng nhằm hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội sau dịch COVID-19.
Tuy nhiên, điều kiện kèm theo là Fed sẽ chỉ tăng lãi suất với tổng mức tăng cao nhất là 2% và Fed chưa bắt đầu chương trình Thắt chặt định lượng (Quantitative Tightening - tức là rút tiền ra khỏi hệ thống). Đồng thời, tỷ lệ lạm phát của Việt Nam duy trì trong mức 4%, chính sách tiền tệ của Việt Nam vẫn có xu hướng tiếp tục được mở rộng để hỗ trợ sự phục hồi kinh tế và xuất khẩu vẫn là động lực tăng trưởng kinh tế chính của đất nước.
Theo các chuyên gia của ABCS, tác động lớn chính của việc Fed tăng lãi suất chủ yếu ảnh hưởng đến dòng vốn nước ngoài. Trong ngắn hạn, với lịch sử của các đợt tăng lãi suất khác của Fed, dòng vốn vào các thị trường mới nổi sẽ luôn đảo chiều và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ.
"Chúng tôi kỳ vọng dòng vốn ra khỏi thị trường Việt Nam sẽ chủ yếu đến từ thị trường tài chính. Việt Nam, với nền tảng kinh tế vĩ mô tốt và lạm phát được duy trì ở mức dưới 4% sẽ tiếp tục là điểm đến đầu tư của các doanh nghiệp FDI, đặc biệt là trong ngành công nghiệp sản xuất", báo cáo của ACBS nhận định.
Về phía các ngân hàng thương mại, tại đại hội cổ đông mới đây, trả lời câu hỏi của cổ đông khi đánh giá tác động của việc Fed tăng lãi suất đến lợi nhuận ngân hàng, ông Hàn Ngọc Vũ, Tổng giám đốc Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (VIB) cho rằng, về cơ bản điều này sẽ ảnh hưởng đến chi phí vốn trên thị trường quốc tế. Hiện VIB là một trong số các ngân hàng đặt mục tiêu huy động vốn quốc tế, với mức lãi suất được cho là hấp dẫn hơn và ổn định hơn so với thị trường tiền gửi dân cư trong nước.
Ở thời điểm hiện tại, áp lực về chi phí vốn cũng đang đè lên một số ngân hàng khi lãi suất huy động trên thị trường đang có dấu hiệu tăng.
Thống kê của Công ty Chứng khoán SSI cho thấy, lãi suất huy động dành cho doanh nghiệp đã nhích lên tại một số ngân hàng lớn với mức tăng 20 điểm cơ bản ở các kỳ hạn trên 6 tháng. Với áp lực lạm phát ngày càng hiện hữu, SSI cho rằng mặt bằng lãi suất đã chạm đáy và tốc độ tăng lãi suất trong thời gian tới sẽ phụ thuộc vào tốc độ phục hồi của nền kinh tế và lạm phát.
Dưới góc độ của chuyên gia, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Hoàng Ngân, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển TP Hồ Chí Minh cho rằng, lãi suất huy động nhích lên không phải là xu hướng mà tùy thuộc vào mức độ thanh khoản từng ngân hàng thương mại, cộng thêm yếu tố lạm phát, tâm lý.
Tuy nhiên, với quan điểm điều hành chính sách tiền tệ theo hướng ổn định của Ngân hàng Nhà nước và chuẩn bị triển khai gói hỗ trợ lãi suất 2% cho doanh nghiệp thì nếu lãi suất cho vay tăng, việc hỗ trợ sẽ không còn nhiều ý nghĩa.
"Trong bối cảnh hiện nay, Ngân hàng Nhà nước nên điều hành lãi suất ổn định, không để các ngân hàng thương mại có xu hướng tăng lãi suất cho vay, bởi điều này sẽ ảnh hưởng đến quá trình phục hồi của doanh nghiệp đang còn nhiều khó khăn. Đồng thời, sớm triển khai cụ thể hóa hướng dẫn chi tiết cho các doanh nghiệp tiếp cận với gói tài khóa hỗ trợ 2% lãi suất, để doanh nghiệp vượt qua khó khăn thách thức và giữ nguyên mặt bằng giá bán", Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Hoàng Ngân đề xuất.
Vẫn biết trong bối cảnh lạm phát có nguy cơ tăng do chi phí đầu vào tăng, đang gây nhiều áp lực đến việc điều hành chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, trong bối cảnh đại dịch COVID-19 còn diễn biến phức tạp, nhiều doanh nghiệp vẫn đang gặp rất nhiều khó khăn. Cộng thêm ảnh hưởng dây chuyền từ giá xăng dầu tăng, kéo theo hầu hết chi phí nguyên liệu sản xuất đầu vào của doanh nghiệp tăng cao đang ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
Do đó, các chuyên gia cho rằng, bất kể ảnh hưởng dây chuyền của việc Fed tăng lãi suất thì chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước trong năm nay vẫn thực hiện theo hướng hỗ trợ cho doanh nghiệp phục hồi. Họ có thể sẽ sử dụng các công cụ thông qua thị trường mở, như mua ngoại hối và bơm tiền đồng ra thị trường để hỗ trợ trợ thanh khoản hoặc nâng trần tăng trưởng tín dụng cho các ngân hàng thương mại.
ACBS ước tính lãi suất tại Việt Nam có thể sẽ tăng trong 6 tháng cuối năm 2022 và tối đa là 0,5 điểm %. Đây cũng là mức tăng lãi suất tối đa trong năm nay được nhiều nhóm phân tích nhận định. Giới phân tích cho rằng, bất kỳ hành động thắt chặt tiền tệ (nếu có) sẽ chỉ diễn ra sớm nhất là từ quý 3/2022 và mức độ tăng lãi suất khi đó sẽ rất hạn chế, ở mức từ 0,25 - 0,5 điểm %.
Thực tế, trong văn bản trả lời kiến nghị cử tri mới đây, Ngân hàng Nhà nước cũng phát đi thông điệp về việc duy trì chính sách nới lỏng tiền tệ trong năm nay. Cụ thể, Ngân hàng Nhà nược hiện đang triển khai xây dựng Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết 11/NQ-CP của Chính phủ về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Theo đó, sẽ phấn đấu giảm lãi suất cho vay khoảng 0,5 - 1 điểm % trong 2 năm 2022 và 2023, nhất là đối với lĩnh vực ưu tiên.
Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cũng cho biết sẽ tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng cố gắng tiết giảm chi phí hoạt động để tiếp tục giảm lãi suất; tiếp tục rà soát cơ chế, thủ tục cho vay phù hợp hơn với thực tiễn thị trường và tình hình mới, nhưng vẫn đảm bảo chất lượng tín dụng, an toàn hệ thống để hỗ trợ các doanh nghiệp được vay vốn ngân hàng thuận lợi, góp phần tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh...
Lãi suất tăng thường tạo ra tâm lý 'phòng thủ', có thể ảnh hưởng đến chứng khoán Theo các chuyên gia Công ty Chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BSC), tác động của việc Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) nâng lãi suất sẽ có ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán Việt Nam (TTCK) nhưng không quá tiêu cực. Việc Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) nâng lãi suất cũng...