Cần tổng hợp đầy đủ để quản lý chặt nợ đọng xây dựng cơ bản
Một vấn đề đã được Kiểm toán Nhà nước ( KTNN) phát hiện và chỉ ra trong suốt nhiều năm qua khi thực hiện kiểm toán Báo cáo kiểm toán quyết toán NSNN là nợ đọng xây dựng cơ bản (XDCB) chưa được tổng hợp đầy đủ do thiếu những quy định cụ thể của pháp luật.
Cần xác định trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương không báo cáo trung thực số liệu nợ đọng XDCB.
Thanh toán nợ đọng xây dựng cơ bản nguồn ngân sách trung ương giảm mạnh
Báo cáo của Chính phủ về thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế trong lĩnh vực đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và hệ thống ngân hàng năm 2014 và Báo cáo của Chính phủ về tình hình nợ đọng XDCB nguồn vốn NSNN, trái phiếu chính phủ năm 2013 cho thấy, nợ đọng XDCB tính đến hết năm 2013 là 57.977 tỷ đồng (tăng 11.401 tỷ đồng so với năm 2012), bằng 33,1% kế hoạch vốn năm 2013.
Về tình hình nợ đọng XDCB năm 2014, Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư phát triển giai đoạn 2011-2015 và dự kiến kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT) cho biết, số nợ đọng XDCB đến hết năm 2014 là 86.995 tỷ đồng (NSNN 76.208 tỷ đồng, trái phiếu chính phủ 10.774 tỷ đồng, nguồn vốn khác 13 tỷ đồng). Trong đó, năm 2015, các bộ, cơ quan T.Ư, địa phương đã bố trí thanh toán nợ đọng XDCB 29.895 tỷ đồng (từ nguồn NSNN là 27.078,9 tỷ đồng; các nguồn vốn khác là 5,4 tỷ đồng; trái phiếu chính phủ 2.810,6 tỷ đồng). Số nợ đọng XDCB đến hết năm 2014 chưa bố trí kế hoạch vốn để thanh toán 57.100 tỷ đồng (trong đó từ nguồn NSNN là 49.129,4 tỷ đồng; nguồn vốn khác 7,7 tỷ đồng; trái phiếu chính phủ là 7.963,6 tỷ đồng).
Nếu như năm 2015, các bộ, ngành, địa phương phải bố trí gần 30.000 tỷ đồng để thanh toán nợ đọng XDCB thì từ năm 2016 trở đi, con số này đã giảm rất mạnh. Cụ thể, theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT), tổng kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 bố trí để thanh toán nợ đọng XDCB nguồn ngân sách T.Ư chỉ là 9.869 tỷ đồng (gồm trái phiếu chính phủ 810 tỷ đồng và ngân sách T.Ư 9.059 tỷ đồng). Số đã được phân bổ để thanh toán nợ đọng XDCB trong 2 năm 2016 và 2017 là 4.927 tỷ đồng (năm 2016 là 3.121 tỷ đồng và năm 2017 là 1.807 tỷ đồng); số chưa phân bổ đến hết năm 2017 là 4.942 tỷ đồng (trong đó nguồn trái phiếu chính phủ là 678 tỷ đồng và ngân sách T.Ư là 4.264 tỷ đồng).
Đồng thời với đó, số nợ đọng XDCB của các bộ, ngành, cơ quan T.Ư và địa phương được tổng hợp cũng giảm mạnh. Cụ thể, tổng hợp số liệu nợ đọng đến ngày 31/12/2017 của 7 bộ, ngành, cơ quan T.Ư chỉ là 1.775 tỷ đồng (ngân sách T.Ư 1.291 tỷ đồng; trái phiếu chính phủ 369 tỷ đồng; vốn khác 115 tỷ đồng) và của 49 địa phương là 44.198 tỷ đồng.
Đây là tín hiệu đáng mừng khi mà qua kiểm toán quyết toán NSNN năm 2012, 2013, KTNN nêu rõ, nhiều bộ, cơ quan T.Ư và địa phương có số nợ đọng lên tới trên 1.000 tỷ đồng. Đơn cử, kết thúc niên độ tài chính năm 2012, KTNN đã dẫn Báo cáo của Chính phủ trong đó nêu rõ danh sách 15 bộ, ngành, địa phương có số nợ đọng XDCB trên 1.000 tỷ đồng, trong đó địa phương có số nợ cao nhất lên tới 3.954 tỷ đồng.
Năm tiếp theo, cũng dẫn Báo cáo của Chính phủ, KTNN cho biết, nợ đọng XDCB tính đến hết năm 2013 của khoảng 10 Bộ, ngành, địa phương đã vượt quá trên 1.000 tỷ đồng, trong đó địa phương có số nợ đọng cao nhất là 5.300 tỷ đồng. Hơn nữa, ở những năm trước đó còn có tình trạng phát sinh nợ đọng XDCB mới diễn ra phổ biến ở nhiều địa phương và một số cơ quan T.Ư; tỷ lệ nợ đọng XDCB so với tổng chi đầu tư phát triển của một số địa phương còn lớn, đáng chú ý, năm 2015, có địa phương có tỷ lệ nợ đọng XDCB so với tổng chi đầu tư phát triển lên đến 232%, cá biệt có địa phương có tỷ lệ này lên đến 786%.
Video đang HOT
Cần tổng hợp đầy đủ nợ đọng xây dựng cơ bản
Qua kiểm toán quyết toán NSNN niên độ tài chính 2014, KTNN nhận xét, những con số liên quan đến vấn đề bố trí kế hoạch vốn để thanh toán nợ đọng XDCB được đưa ra chỉ là số liệu tổng hợp, không có chi tiết dự án chưa có phương án, lộ trình xử lý trong Kế hoạch đầu tư công trung hạn 5 năm 2016-2020. KTNN còn chỉ ra 39/50 địa phương được kiểm toán phát sinh nợ đọng XDCB mới trong năm 2014 với tổng số tiền 13.377 tỷ đồng; tỷ lệ nợ đọng XDCB của một số địa phương còn lớn so với tổng chi đầu tư phát triển của địa phương; một số địa phương chưa xây dựng phương án, kế hoạch và lộ trình xử lý nợ đọng XDCB; một số bộ, cơ quan T.Ư chưa bố trí nguồn vốn để xử lý nợ đọng.
Tại Báo cáo kết quả kiểm toán quyết toán NSNN năm 2015, KTNN tiếp tục dẫn Báo cáo của Bộ KH&ĐT cho biết, số nợ đọng XDCB vốn ngân sách T.Ư và trái phiếu chính phủ đến ngày 31/12/2014 là 21.416 tỷ đồng, số nợ đọng XDCB vốn ngân sách T.Ư và trái phiếu chính phủ đến hết kế hoạch 2015 chưa bố trí nguồn thanh toán là 14.043 tỷ đồng. Qua thực tế kiểm toán, KTNN đánh giá, số nợ đọng nguồn ngân sách địa phương chưa được tổng hợp để báo cáo Chính phủ theo quy định tại Mục II Chỉ thị số 07/CT-TTg ngày 30/4/2015 của Thủ tướng Chính phủ.
Qua kiểm toán quyết toán NSNN năm 2017, KTNN cũng nêu rõ, do chưa có quy định về trách nhiệm tổng hợp số liệu nợ đọng XDCB hằng năm và tổng hợp phương án trả nợ XDCB từ kế hoạch đầu tư trung hạn nguồn ngân sách T.Ư do địa phương quản lý nên không có báo cáo cập nhật tổng hợp về tình hình nợ XDCB của các Bộ, cơ quan T.Ư và địa phương; không có số liệu tổng hợp số nợ đọng XDCB nguồn ngân sách địa phương, nguồn vốn khác.
Để khắc phục những hạn chế, bất cập trên, qua kiểm toán quyết toán NSNN những năm trước đây, KTNN kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo cơ quan hữu quan xác định rõ nợ đọng XDCB để kiểm soát chặt chẽ, xác định trách nhiệm của các bộ, cơ quan T.Ư, địa phương không báo cáo đúng đắn, trung thực số liệu nợ đọng XDCB. Năm 2018, qua kiểm toán quyết toán NSNN năm 2017, KTNN cũng tiếp tục kiến nghị cơ quan hữu quan cần tổng hợp, quản lý và theo dõi việc tổng hợp số liệu nợ đọng XDCB hằng năm để báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Theo Phúc Khang
baokiemtoannhanuoc.vn
Ông Bùi Sỹ Lợi nói về đề xuất tăng lương của Chính phủ
Trao đổi với báo chí bên hành lang Quốc hội, Phó Chủ nhiệm Ủy ban về Các vấn đề xã hội Bùi Sỹ Lợi cho rằng đề xuất tăng lương cơ sở từ 1,49 triệu lên 1,6 triệu đồng/tháng năm 2020 của Chính phủ "rất phù hợp".
Ông Lợi trao đổi như trên vào sáng nay (22-10). Ông Lợi cho biết theo Nghị quyết của QH, trước khi thực hiện kế hoạch cải cách tiền lương vào năm 2021 sẽ điều chỉnh nâng mức lương cơ sở bình quân mỗi năm 8%.
"Năm ngoái ta đã tăng lương 7%. Năm nay, nếu mức tăng là 110.000 đồng thì tức là tăng 7,33%, đúng với tinh thần nghị quyết. Vấn đề là Chính phủ cân đối nguồn lực để tăng lương ở đâu. Đấy là vấn đề quan trọng"- ông Lợi nói.
Phó chủ nhiệm Uỷ ban về Các vấn đề xã hội Bùi Sỹ Lợi.
Cạnh đó, liên quan đến những đề xuất như giảm chi hành chính, tiết kiệm, tăng nguồn thu ngân sách..., ông Lợi cho rằng Chính phủ phải hết sức lưu ý đến việc cả nước đang thực hiện Nghị quyết 18 của Trung ương về đổi mới hệ thống chính trị với các đơn vị tổ chức trong Đảng và Nghị quyết 19 về đổi mới các đơn vị sự nghiệp công lập.
"Phải dùng tiền tiết kiệm được khi đưa công chức, viên chức ra khỏi bộ máy hưởng lương nhà nước để dùng quỹ này bổ sung cho nguồn cải cách tiền lương"- ông nói và dẫn chứng, ngành y tế trong 2 năm qua cắt giảm được 25.000 biên chế, tiết giảm được phần ngân sách Trung ương chi trả lương là 2.100 tỉ đồng. Vậy chúng ta phải tập trung nguồn này để cải cách tiền lương năm 2020.
"Quan trọng là nếu ta tập trung để nâng được mức lương cơ sở vào năm 2020, chúng ta sẽ có cơ hội để cải cách tiền lương vào 2021 theo Nghị quyết của Trung ương"- Phó chủ nhiệm Ủy ban về Các vấn đề xã hội nhấn mạnh.
Tuy nhiên, ông cũng băn khoăn, theo báo cáo của Chính phủ, tiến độ sắp xếp đơn vị hành chính sự nghiệp và các tổ chức chính trị xã hội rất chậm và hiệu quả chưa cao. Việc này tác động rất lớn đến chính sách cải cách tiền lương, nhất là năm 2021, bởi bộ máy quá cồng kềnh thì ngân sách không chịu nổi.
"Bộ máy lớn mà ta cứ cố cải cách tiền lương thì dẫn đến chuyện ta sẽ lạm phát tiền lương, bởi tiền lương là giá trị chi trả sức lao động trên thị trường. Anh tăng lương mà để cho giá tăng lên thì không có ý nghĩa"- ông nói.
Theo ông, nếu muốn cải cách chính sách tiền lương, thì chỉ còn hơn một năm nữa, Chính phủ phải tích cực để tinh giản biên chế, cải cách bộ máy hành chính, đặc biệt là sắp xếp lại các đơn vị hành chính sự nghiệp theo hướng mau chóng chuyển sang tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
"Phải hiểu đúng, tự chủ ở đây là tự chủ cả tài chính, bộ máy, biên chế, lao động để cho người ta tự chủ lo lấy tiền lương. Còn nhà nước giao cho các đơn vị hành chính công lập nhiệm vụ gì thì nhà nước trả chi phí cho phần đó. Có như vậy mới giải quyết được chính sách cải cách tiền lương"- ông Lợi nói.
Bên hành lang Quốc hội, Phó Chủ nhiệm Ủy ban về Các vấn đề xã hội Bùi Sỹ Lợi đã trả lời các câu hỏi báo chí.
Ủy ban Tài chính - Ngân sách cảnh báo tăng lương sẽ ảnh hưởng tới việc tăng chi thường xuyên trong khi nhà nước đang nỗ lực để giảm tỷ lệ chi này. Quan điểm của ông về việc này thế nào?
Ông Bùi Sỹ Lợi: Đương nhiên tăng lương sẽ dẫn tới tăng chi thường xuyên. Tuy nhiên, việc tăng lương cũng là theo Nghị quyết của Trung ương và của Quốc hội để đảm bảo đời sống của người lao động.
Vấn đề cơ bản như tôi đã nói ở trên, Chính phủ phải điều hành kinh tế vĩ mô sao cho không làm tăng chỉ số giá sinh hoạt CPI và tiếp tục tích cực cải cách bộ máy để giảm nhẹ biên chế và chuyển mạnh các đơn vị sự nghiệp công lập sang mô hình tự chủ tự chịu trách nhiệm. Như vậy mới có nguồn để cải cách tiền lương và mới giảm được chi hành chính, trong đó có chi ngân sách cho tiền lương.
.Từ thực tế việc triển khai cải cách bộ máy, ông có niềm tin với việc thực hiện kế hoạch cải cách tiền lương không?
Cho đến giờ phút này, theo báo cáo của Bộ Nội vụ và báo cáo của Chính phủ, rõ ràng việc sắp xếp bộ máy hành chính nhà nước, đổi mới các đơn vị sự nghiệp công lập, chuyển đổi mô hình ta đang rất chậm so với yêu cầu.
Đáng ra đến năm 2020, chúng ta phải giảm được mức trung bình 10%, nhưng thực tế, gắn với quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ theo vị trí việc làm, có ngành nghề đơn vị có thể phải giảm nhưng có những đơn vị lại không thể giảm được. Vấn đề quan trọng là ta phải sớm sắp xếp, đổi mới các đơn vị sự nghiệp công lập và mô hình tự chủ tự chịu trách nhiệm thì điều đó mới có tác dụng.
Bộ máy nhà nước của ta có hơn 300.000 công chức trong tổ chức Đảng, tổ chức chính trị, như vậy là chiếm tỷ trọng không lớn trong dân số. Vấn đề là phải xử lý khu vực viên chức, vì đây là khu vực 2,2 triệu người. Như ngành y tế vừa qua làm rất hiệu quả. Vấn đề là phải quyết liệt thực hiện việc này.
.Theo tính toán của cơ quan thẩm tra, việc tăng lương năm sau, nếu thực hiện, sẽ cần phải dùng đến 50% nguồn tăng thu ngân sách địa phương, 40% nguồn tăng thu ngân sách Trung ương của năm nay để đảm bảo. Điều này sẽ ảnh hưởng lớn tới phần chi cho đầu tư phát triển?
Điều đó chắc chắn sẽ đe dọa đến việc đầu tư cho xây dựng cơ bản, hạ tầng cơ sở. Tuy nhiên, nếu chúng ta muốn tăng năng suất lao động, để việc sử dụng nguồn lao động cho hiệu quả thì nhất thiết phải tăng lương.
Trong cải cách tiền lương bao giờ cũng tính toán hai phương án, một là có lợi cho người lao động, hai là không có lợi cho người lao động mà đầu tư vào xây dựng cơ bản. Việc không đầu tư cho người lao động tác động tiêu cực hơn nhiều so với việc thâm hụt nguồn đầu tư phát triển.
Theo tôi, trong giai đoạn hiện nay, đầu tư cho người lao động thông qua việc cải thiện tiền lương chính là đầu tư cho phát triển. Chúng ta phải chịu đựng việc này một vài năm, chắc chắn như vậy, để tạo ra động lực cho phát triển. Nhưng sau đó, chúng ta phải sắp xếp cho hợp lý bộ máy và sắp xếp cho được vị trí việc làm. Hiện nay, nhiều cơ quan đơn vị vẫn chưa hiểu rõ về vị trí việc làm...
ĐỨC MINH- CHÂN LUẬN
Thoeo PLO
Ngán ngẩm vì mỗi tháng đưa cho vợ 50 triệu, suốt ngày chỉ được ăn... thịt luộc Mọi người thường nói, tình yêu của người người đàn ông đi qua cái dạ dày. Vậy mà mỗi lần về nhà ăn cơm cùng vợ con, cái dạ dày của Vinh thường xuyên không được thỏa mãn, luôn trong tình trạng chán chường. Vinh và Hoa kết hôn đã được 6 năm, có một cô con gái 5 tuổi và con trai...