Cẩn thận: 4 loại thuốc có thể khiến tình trạng suy tim nghiêm trọng hơn
Suy tim thường do các vấn đề sức khỏe khác gây ra, như bệnh tim hoặc tiểu đường . Nhưng các loại thuốc thông thường cũng có thể làm tăng rủi ro gây ra tình trạng này.
Suy tim là tình trạng tim không bơm m.áu đủ mạnh để đáp ứng nhu cầu của cơ thể. Khi suy tim xảy ra, m.áu có thể chảy chậm hơn và áp lực trong tim tăng lên, khiến tim không thể cung cấp đủ oxy và dưỡng chất cho các cơ quan. Điều này có thể gây ra tích tụ chất lỏng trong phổi, cơ thể và các triệu chứng như khó thở, sưng phù và mệt mỏi. Suy tim có thể là kết quả của nhiều vấn đề tim mạch khác nhau, bao gồm bệnh mạch vành, cao huyết áp, bệnh van tim và các rối loạn nhịp tim.
Nói cách khác, suy tim là giai đoạn cuối của các bệnh về tim. Lúc này, chức năng bơm m.áu của tim người bệnh suy giảm, lượng m.áu đầu ra không còn đáp ứng được nhu cầu trao đổi chất của cơ thể, m.áu trong các cơ quan và mô không thể quay trở lại tim một cách thuận lợi.
Theo Sohu, điều đáng sợ hơn nữa là tỷ lệ t.ử v.ong do suy tim cũng tương tự như ung thư, khoảng 20% bệnh nhân suy tim sẽ t.ử v.ong trong vòng 1 năm sau khi chẩn đoán và 50% sẽ t.ử v.ong trong vòng 5 năm sau khi chẩn đoán.
Suy tim là tình trạng tim không bơm m.áu đủ mạnh để đáp ứng nhu cầu của cơ thể (Ảnh: Internet)
1. Triệu chứng suy tim
Trên lâm sàng, suy tim được chia thành suy tim trái, suy tim phải và suy tim toàn bộ dựa trên các triệu chứng khác nhau của người bệnh.
- Triệu chứng suy tim trái
Bao gồm các triệu chứng chính là khó thở, khó thở sẽ tăng lên sau khi vận động thể chất và nhịp tim nhanh. Trong trường hợp nghiêm trọng, bệnh nhân thậm chí có thể không thể nằm ngủ vào ban đêm và dễ bị đ.ánh thức, hạ huyết áp, lú lẫn hoặc kích động vì hạ oxy m.áu và tưới m.áu não kém
Khi bệnh tiến triển đến giai đoạn phù phổi, người bệnh sẽ xuất hiện các triệu chứng như ho, đờm có lẫn dịch hồng, suy nhược cơ thể.
- Triệu chứng suy tim phải
Triệu chính điển hình nhất của suy tim phải là phù nề, thường phát triển đầu tiên ở chi dưới. Triệu chứng sẽ nặng hơn đáng kể sau khi đi lại và có thể thuyên giảm sau khi nghỉ ngơi.
Ngoài phù nề thì bệnh nhân có thể gặp các triệu chứng khác như chán ăn; có thể phải đi tiểu nhiều hơn, nhất là vào ban đêm; khó thở; sưng tĩnh mạch cổ; mạch nhanh; ngực đau; tăng cân; da lạnh và đổ mồ hôi; tinh thần mệt mỏi, bối rối và hay quên.
- Suy tim toàn bộ
Suy tim toàn bộ là tình trạng bệnh lý với các triệu chứng tim mạch cấp tính hoặc mạn tính. Khi trải qua suy tim cấp, các triệu chứng tim mạch xuất hiện đột ngột nhưng sau đó giảm đi nhanh chóng, thường xảy ra ở những người đã trải qua cơn nhồi m.áu cơ tim và sống sót.
Video đang HOT
Bệnh cảnh giống với tình trạng suy tim phải mức độ nặng kèm theo khó thở thường xuyên. Gan to, phù nhiều, tĩnh mạch cổ nổi và tràn dịch đa màng. Nếu xuất hiện các triệu chứng như chân tay lạnh, tím tái, rối loạn ý thức, tụt huyết áp thì rất có thể đã xảy ra sốc tim và cần phải đi khám kịp thời, càng sớm càng tốt.
Trên lâm sàng, suy tim được chia thành suy tim trái, suy tim phải và suy tim toàn bộ dựa trên các triệu chứng khác nhau của người bệnh (Ảnh: Internet)
2. Các loại thuốc gây suy tim khi sử dụng lâu dài
Theo WebMD, có một số loại thuốc và chất bổ sung tự nhiên có thể trở thành nguyên nhân gây ra hoặc làm trầm trọng thêm bệnh suy tim vì chúng:
Gây ra các phản ứng tiêu cực với trái tim.
Ảnh hưởng tới sức co bóp của cơ tim.
Làm cho bệnh cao huyết áp trở nên nghiêm trọng hơn.
Ngăn cản sự hoạt động của thuốc điều trị suy tim.
Bệnh nhân suy tim chủ yếu là người cao t.uổi, bệnh nhân thường mắc các bệnh mãn tính như tiểu đường, tăng huyết áp, mỡ m.áu cao. Các triệu chứng suy tim có thể trầm trọng hơn khi sử dụng kết hợp các loại thuốc với nhau. Shi Haoqiang, Phó Giám đốc Khoa Dược của Bệnh viện Ruijin Thượng Hải (Trung Quốc) lưu ý rằng, 4 loại thuốc dưới đây không được khuyến khích sử dụng kết hợp với thuốc chống suy tim nếu không muốn các triệu chứng suy tim trầm trọng hơn mà người bệnh suy tim cần biết:
- Thuốc chống viêm không steroid (NSAID)
Các thuốc chống viêm không steroid (NSAID) bao gồm ibuprofen, acetaminophen, indomethacin và ketorolac. Việc sử dụng kết hợp các loại thuốc này ở bệnh nhân suy tim có thể dễ dàng dẫn đến tăng tải cho tim và sức cản mạch m.áu hệ thống, từ đó có thể l.àm t.ình trạng suy tim trở nên trầm trọng hơn.
Những loại thuốc này cũng dễ dàng khiến cơ thể người bệnh suy tim tích nhiều nước và muối hơn, khiến m.áu khó lưu thông hơn và khiến thuốc lợi tiểu (thường được sử dụng để điều trị huyết áp cao) khó phát huy tác dụng hơn.
- Thuốc hạ đường huyết
Cơ thể bạn sẽ loại bỏ metformin qua thận, vì vậy đây không phải là lựa chọn tốt nếu thận của bạn không hoạt động như bình thường.
Theo WebMD, một nghiên cứu cho thấy rosiglitazone có liên quan đến nguy cơ suy tim cao hơn pioglitazone do thuốc này gây giữ nước và tăng cân ở những người bị suy tim và khiến những người không mắc bệnh này dễ mắc bệnh hơn.
Tiêu chuẩn chăm sóc sức khỏe của Hiệp hội Tiểu đường Hoa Kỳ cũng khuyến cáo bệnh nhân bị suy tim có triệu chứng nên tránh dùng thiazolidinediones.
- Thuốc chống loạn nhịp tim
Thuốc chống loạn nhịp có tác dụng co bóp có khả năng làm nặng thêm tình trạng suy tim, chẳng hạn như thuốc chống loạn nhịp loại I disopyramide và flecainide.
Ngoài ra, thuốc chống loạn nhịp tim loại III sotalol cũng có thể tạo ra tác dụng co bóp tiêu cực, gây nhịp tim chậm và dẫn đến khởi phát hoặc làm trầm trọng thêm bệnh suy tim.
Có một số loại thuốc và chất bổ sung tự nhiên có thể trở thành nguyên nhân gây ra hoặc làm trầm trọng thêm bệnh suy tim (Ảnh: Internet)
- Thuốc hạ huyết áp
Thuốc chẹn kênh canxi có thể làm trầm trọng thêm tình trạng phù nề hoặc chất lỏng tích đọng lại trong các mô của cơ thể. Thuốc chủ vận trung ương (clonidine, moxonidine) gây ra những thay đổi trong cách cơ thể giải phóng các hormone ảnh hưởng đến tim và làm bệnh suy tim nặng hơn.
Ngoài các loại thuốc kể trên thì các loại thuốc khác có thể gây suy tim bao gồm thuốc chống nấm, thuốc điều trị ung thư, thuốc chống trầm cảm, chất kích thích (cũng thường được gọi là chất kích thích tâm lý, bao gồm nhiều loại thuốc làm tăng hoạt động của hệ thống thần kinh trung ương và cơ thể, thuốc tạo cảm giác đê mê và tăng sinh lực, hoặc các loại thuốc có tác dụng lên thần kinh giao cảm), thuốc ức chế yếu tố TNF-.
3. Lưu ý
Khi dùng thuốc, bệnh nhân suy tim cần nói chuyện với bác sĩ về t.iền sử bệnh cũng như các loại thuốc đang sử dụng để tránh tác dụng phụ khi uống nhiều loại thuốc cùng lúc. Với các thuốc không kê đơn điều trị các bệnh nhỏ như đau đầu hoặc nghẹt mũi, người bị suy tim cũng cần thận trọng khi sử dụng và tránh một số nhóm thuốc.
Khi dùng thuốc, bệnh nhân suy tim cần nói chuyện với bác sĩ về t.iền sử bệnh cũng như các loại thuốc đang sử dụng để tránh tác dụng phụ khi uống nhiều loại thuốc cùng lúc (Ảnh: Internet)
Chẳng hạn như với NSAID không kê đơn như ibuprofen, chúng giống với thuốc kê đơn, có thể khiến bệnh suy tim trở nên nghiêm trọng hơn. Những loại thuốc khác có natri hoặc các thành phần có thể làm trầm trọng thêm tình trạng suy tim của bạn hay các tình trạng đi kèm với nó.
Thuốc thông mũi thường chứa các thành phần giúp co mạch m.áu và có thể gây ra nhiều vấn đề về tim khi dùng vượt quá mức cần thiết trong một thời gian dài.
Với các chất bổ sung tự nhiên, chúng cũng có thể gây ra tương tác với các loại thuốc khác. Chẳng hạn, hơn 400 IU vitamin E mỗi ngày có thể khiến một người tăng nguy cơ mắc bệnh suy tim. Vì thế mà điều quan trọng là không dùng vitamin hoặc các chất bổ sung để ngăn ngừa các vấn đề về tim mạch hay cải thiện các triệu chứng suy tim; tránh các sản phẩm có chứa thành phần chiết xuất cây ma hoàng bởi nó có thể ảnh hưởng tới huyết áp và nhịp tim của người bệnh.
Tránh các sản phẩm có thể tương tác với thuốc tim mạch, như digoxin và thuốc làm loãng m.áu.
Cuối cùng, hãy nói chuyện với bác sĩ để biết danh sách các loại thuốc không kê đơn an toàn có thể sử dụng khi bị suy tim cũng như nhận được lời khuyên về những lưu ý khi đọc thành phần trên nhãn thuốc.
Vết loét nhỏ khiến người phụ nữ nguy kịch
Có triệu chứng khó thở, người phụ nữ bất ngờ nhận kết quả bị tràn dịch màng phổi, viêm phổi do mắc sốt mò.
Người phụ nữ 69 t.uổi, ngụ Hà Nội, bị tăng huyết áp nhiều năm. Sau một tuần mệt mỏi, ho nhưng tự điều trị không đỡ, khó thở tăng dần, bà đến phòng khám tư kiểm tra. Kết quả chụp CT cho thấy bà bị viêm phổi - tràn dịch màng phổi 2 bên.
Bệnh nhân được chuyển đến Bệnh viện Đại học Y Hà Nội với vết loét hoại tử khô, kích thước 1x2 cm ở vùng nách trái, nghi ngờ sốt mò.
Vết loét trên cơ thể người phụ nữ. Ảnh: BVCC.
Sau 2 ngày điều trị, bệnh vẫn cải thiện chậm, tình trạng hô hấp tiếp tục xấu đi, toan hóa m.áu nặng. Người bệnh được chuyển đến Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương trong tình trạng sốc nhiễm khuẩn, suy đa tạng, phải thở máy.
Trong quá trình điều trị tại đây, bệnh nhân được chẩn đoán sốc nhiễm khuẩn, viêm phổi có tràn dịch màng phổi, suy thận cấp, suy tim, rung nhĩ. Tình trạng bệnh nhân rất nặng, phải duy trì các thuốc vận mạch, các thuốc kháng sinh và điều trị lọc m.áu liên tục.
Sau 5 ngày điều trị, tình trạng bệnh nhân có cải thiện rõ, các cơ quan dần hồi phục.
Theo ThS.BS Đồng Phú Khiêm, Phó trưởng khoa Hồi sức tích cực, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương, đơn vị này thường xuyên tiếp nhận và điều trị các ca sốt mò. Các trường hợp thường là ở giai đoạn nặng, suy đa tạng, điều trị hồi sức rất khó khăn và tốn kém.
Sốt mò là bệnh truyền sang người qua côn trùng trung gian là ấu trùng mò. Người bị nhiễm bệnh khi bị ấu trùng mò đốt.
Mò và ấu trùng ưa sống ở nơi đất xốp, ẩm mát trong các khe hang, ven bờ sông suối, nơi râm mát có bụi rậm và cây thấp có quả hạt để chờ thú nhỏ, gặm nhấm lui tới.
Người có thể bị đốt nếu đi phát rẫy làm nương; bộ đội đi dã ngoại; ngồi, nằm nghỉ, trên bãi cỏ, để mũ nón buộc võng vào gốc cây... Lúc đầu, nơi ấu trùng mò đốt thường có một nốt phỏng nước bằng hạt đỗ, không đau, bệnh nhân thường không chú ý.
Sau thời gian ủ bệnh từ 8 đến 12 ngày, bệnh khởi phát với những triệu chứng sốt cao liên tục, đau nhức đầu, đau mỏi cơ, xuất hiện vết loét đặc trưng.
Những vết này thường xuất hiện ở vùng da mềm, ẩm, như bộ phận s.inh d.ục, vùng hạ nang, h.ậu m.ôn, bẹn, nách, cổ... đôi khi ở vị trí bất ngờ trong vành tai rốn, mi mắt (dễ nhầm với lẹo mắt). Nốt loét thường không đau, không ngứa, hình tròn/bầu dục, đường kính 1 mm đến 2 cm.
Nốt phỏng ban đầu phát triển dần thành dịch đục trên một nền sẩn đỏ. Sau 4-5 ngày thì vỡ ra thành một nốt có vẩy nâu nhạt hoặc sẫm tùy vào vùng da mềm hay cứng và độ non hay già của nốt loét.
Sau một thời gian, vẩy bong để lộ nốt loét đáy nông, hồng nhạt, không mủ, không tiết dịch, bờ viền hồng đỏ hoặc thâm tùy theo bệnh đang phát triển hay đã lui. Từ khi hết sốt, nốt loét liền dần, nốt loét gặp ở 65-80% các trường hợp.
Bác sĩ Khiêm nhấn mạnh một số bệnh nhân có thể có nổi hạch gần vết loét, phát ban trên da. Trong trường hợp bệnh được chẩn đoán điều trị sớm (5 ngày đầu), kết quả điều trị sẽ rất thuận lợi. Nếu điều trị muộn hoặc điều trị không phù hợp, có thể có biến chứng nặng như viêm cơ tim, sốc nhiễm khuẩn, viêm phổi, suy hô hấp, viêm não - màng não.
Liệu pháp insulin sớm có hiệu quả cho bệnh tiểu đường type 2 Một nhóm các nhà khoa học Trung Quốc đã chứng minh hiệu quả của liệu pháp insulin sớm đối với bệnh nhân mới được chẩn đoán mắc bệnh tiểu đường type 2 (T2D), qua đó có thể giảm nguy cơ đột quỵ và nhập viện do suy tim so với những người không được điều trị. Một nhóm nghiên cứu chung do Giáo...