Cái giá của TQ nếu bất chấp Tòa quốc tế
Nếu phản đối, không công nhận hoặc kiên quyết không thực thi các phán quyết của tòa án, trọng tài quốc tế, TQ sẽ gặp phải những tổn thất không hề nhỏ.
Về vấn đề kiện Trung Quốc ra các cơ quan giải quyết tranh chấp quốc tế, gần đây đã có rất nhiều luồng ý kiến ủng hộ mạnh mẽ. Nhiều học giả, chuyên gia trong và ngoài nước đã khẳng định, với những bằng chứng lịch sử không thể chối cãi, Việt Nam nhất định sẽ giành phần thắng nếu khởi kiện TQ.
Tuy nhiên, một tình huống cũng đã được đặt ra là dù Việt Nam thắng kiện nhưng TQ không thực thi nghiêm túc phán quyết của toà án hoặc trọng tài quốc tế. Một khi TQ đã ngang nhiên bất chấp dư luận và luật pháp quốc tế để xâm phạm chủ quyền biển đảo của các nước khác, chẳng có gì khó hiểu nếu nước này không tôn trọng các phán quyết đó.
Mối lo ngại này không phải không có cơ sở. Hiểu một cách đơn giản, việc thực thi một phán quyết ở phạm vi quốc tế khó khăn hơn nhiều so với ở phạm vi quốc gia. Trong giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia, tòa án hay trọng tài quốc tế chỉ có thể ra phán quyết, chứ không được trang bị một đội ngũ thi hành án để hỗ trợ thực thi các phán quyết này.
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy vẫn có những nền tảng giúp cho luật pháp quốc tế có thể vận hành. Điều này được Andrew T. Guzman, giáo sư luật của Đại học California, Berkeley lý giải trong tác phẩm kinh điển của ông – How International Law Works: A Rational Choice Theory. Coi các quốc gia như những chủ thể hành động duy lý, Guzman đã phân tích nguyên nhân khiến các quốc gia thường chấp nhận tuân thủ luật pháp quốc tế, đó là thuyết “tránh tổn thất” (loss avoidance theory) hay còn được biết đến với tên gọi “thuyết 3R” – Reciprocity (có đi có lại); Retaliation (trả đũa); và Reputation (uy tín).
Ý nghĩa cơ bản của thuyết này là: nếu một quốc gia không tuân thủ các nghĩa vụ quốc tế của mình, quốc gia đó có nguy cơ phải gánh chịu những tổn thất nhất định. Đó có thể là việc bị quốc gia khác vi phạm các cam kết đã có với quốc gia này; bị quốc gia khác trả đũa; hoặc không thể đạt được các cam kết đáng tin cậy, cũng như không thể dựa vào luật pháp quốc tế để bảo vệ mình trong tương lai. Những yếu tố này làm tăng “chi phí” của hành vi vi phạm, và vì thế sẽ thúc đẩy sự hợp tác và tuân thủ.
Tàu hải giám TQ bao vây và xịt vòi rồng vào tàu kiểm ngư VN. Ảnh: Hoàng Sang
Trong trường hợp của TQ, nếu vận dụng lý thuyết trên, có thể thấy rằng: nếu TQ phản đối, không công nhận hoặc kiên quyết không thực thi các phán quyết của tòa án, trọng tài quốc tế thì TQ sẽ gặp phải những tổn thất không hề nhỏ.
Video đang HOT
Trước hết, chúng ta hãy phân tích chữ R đầu tiên – Reciprocity hay tính chất có đi có lại. Các quốc gia tuân thủ các cam kết quốc tế của mình vì hiểu rằng chỉ khi họ tuân thủ thì các nước khác mới tuân thủ; và việc các quốc gia cùng nhau vi phạm các cam kết quốc tế (reciprocal non-compliance) là điều không có lợi cho bất cứ bên nào. Chẳng hạn, nếu TQ từ chối chấp hành các phán quyết của tòa quốc tế, khi đó, TQ sẽ phải đối diện với việc Việt Nam, Philippines và thậm chí cả một số nước khác cũng sẽ rút lại và/hoặc phá vỡ các thỏa thuận song phương và đa phương với TQ.
Với chủ trương cố gắng giữ hòa khí, tránh đụng độ quân sự, Việt Nam từ trước tới nay luôn kiềm chế trước những hành vi khiêu khích của TQ. Nhưng hơn ai hết, TQ cũng cần duy trì trạng thái hòa bình. Vốn sẵn có các mâu thuẫn nội tại như vấn đề Tây Tạng, TQ hoàn toàn không muốn đồng thời phải đối diện với tình thế bất ổn ở phía Nam. Trong khi đó, khả năng bất ổn sẽ gia tăng khi đã hội đủ hai yếu tố: (i) phán quyết quốc tế ủng hộ Việt Nam và Philippines; và (ii) sự bất tuân thủ phán quyết từ phía TQ. Bởi lẽ, việc công nhiên vi phạm các cam kết quốc tế của TQ khi đó sẽ trở thành nguyên nhân làm cho những thỏa thuận hợp tác cùng phát triển giữa TQ với Việt Nam, Philippines và các nước khác, đặc biệt là ASEAN, có nguy cơ đổ vỡ do vi phạm đó và bên chịu thiệt hại chắc chắn có cả TQ.
Chữ R thứ 2 – Retaliation – nghĩa là sự trả đũa. Việc một quốc gia bị trả đũa vì không tuân thủ pháp luật quốc tế đã diễn ra trong thực tiễn. Cần hiểu rằng, trả đũa ở đây không nhất thiết chỉ là những hành động như đóng cửa biên giới, ngừng giao thương, cắt đứt quan hệ ngoại giao, v.v… từ các nước trực tiếp có tranh chấp. Khả năng dùng đến biện pháp trừng phạt quân sự có thể thấp, do TQ là thành viên của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
Tuy nhiên, TQ có thể sẽ phải đối diện với sự tẩy chay hoặc trả đũa chéo từ các nước khác, mà nghiêm trọng nhất là Mỹ, Nhật và Liên minh châu Âu. Với vai trò là đồng minh của Philippines, sự trả đũa của Mỹ không phải không có khả năng xảy ra. Một số quốc gia có thể lấy việc không trả đũa TQ do vi phạm pháp luật quốc tế làm điều kiện để đòi hỏi TQ nhượng bộ ở vấn đề này hay vấn đề khác. Đó cũng là một “chi phí” gián tiếp đối với nước này.
Hơn nữa, trong xu hướng tinh vi hóa các biện pháp hạn chế nhập khẩu, khả năng có thể xảy ra là một số nước nhân danh phản đối hành vi vi phạm của TQ để khởi xướng những chiến dịch tẩy chay hàng TQ. Xét từ góc độ này, rõ ràng TQ sẽ phải đối diện với những thiệt hại không nhỏ cả về chính trị lẫn kinh tế.
Tuy nhiên, lo ngại lớn nhất của TQ có lẽ nằm ở chữ R cuối cùng – Reputation, nghĩa là uy tín của quốc gia. Từ trước tới nay, chính quyền TQ vẫn luôn khăng khăng họ chính nghĩa trong tranh chấp lãnh hải trước người dân trong nước và công luận quốc tế. Điều gì xảy ra nếu tòa án, trọng tài quốc tế phán quyết hành vi của TQ vi phạm luật pháp quốc tế, nhưng TQ vẫn kiên quyết không thừa nhận và thực thi?
Chính quyền TQ khi đó không chỉ mất uy tín trước mắt với người dân trong nước và dư luận thế giới, mà còn phải đối diện với những tổn thất trong tương lai. Thứ nhất, nếu chính TQ vi phạm UNCLOS 1982 nhưng từ chối tuân thủ phán quyết quốc tế về vấn đề này, thì về sau liệu TQ có thể kỳ vọng các thỏa thuận quốc tế khác mà họ ký kết cũng sẽ được các nước khác tuân thủ? Sự bất tín của TQ sẽ khiến nước này khó có được những thỏa thuận thực sự đáng tin cậy trong tương lai.
Thứ hai, hiện tại và về sau, rõ ràng TQ sẽ còn có tranh chấp lãnh thổ với các quốc gia láng giềng khác. Sẽ có lúc TQ cần viện dẫn tới pháp luật quốc tế vì lợi ích của mình, nhưng khi đó TQ sẽ ở vào tình thế “há miệng mắc quai”. Đó là vấn đề rất lớn đối với một nước lớn và có lịch sử xung đột lãnh thổ nhiều như TQ.
Tóm lại, có thể nói rằng, Việt Nam có đủ bằng chứng lịch sử về chủ quyền quốc gia và việc khởi kiện TQ ra tòa quốc tế sẽ giúp chúng ta chiếm lợi thế. Bởi lẽ, ngay cả khi TQ không tuân thủ phán quyết, họ cũng sẽ gánh chịu những thiệt hại trước mắt và lâu dài. Ngược lại, một phán quyết quốc tế có lợi sẽ trở thành vũ khí sắc bén nhất trong hành trình đấu tranh lâu dài vì sự toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải của Việt Nam.
Theo Khương Duy
Vietnamnet
Thế giới: Gần 80.000 bài báo lên án Trung Quốc
Kể từ 2/5 - ngày Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng biển Việt Nam đến nay, trên thanh công cụ tìm kiếm của Google, có đến gần 80.000 bài báo viết về sự kiện này trên tất cả các phương tiện truyền thông quốc tế.
Điểm chung của các bài viết là cộng đồng quốc tế thật sự quan ngại về những hành động nguy hiểm và làm leo thang căng thẳng của Trung Quốc ở Biển Đông. Bằng những bài viết công tâm, phản ánh đúng bản chất sự việc của các hãng thông tấn có uy tín trên thế giới, tính chính nghĩa của Việt Nam đã được phổ biến rộng rãi và làm lay động lương tri của cộng đồng quốc tế.
Ngoài những tờ báo khai thác lại thông tin từ báo chí Việt Nam, những hãng thông tấn lớn như CNN, Reuters, AP... đã cử phóng viên tham gia đoàn nhà báo được phía Việt Nam cho phép ra thực địa đưa tin. Đặc biệt, CNN là một trong số nhiều hãng thông tấn nước ngoài có những bài viết sâu, phân tích và miêu tả chi tiết về những hành động ngang ngược của Trung Quốc ở thực địa thể hiện qua bài viết của Euan McKirdy. Bài viết này đã lột tả được bộ mặt hung tợn của những tàu chiến, tàu hải giám của Trung Quốc đã dùng mọi thủ đoạn để tấn công tàu thực thi pháp luật và tàu cá Việt Nam.
Ngoài ra, các tờ báo chuyên sâu về phân tích địa chính trị, chiến lược ngoại giao, như Foreign Policy, The Diplomatic... thường xuyên có những bài bình luận, dẫn lời các chuyên gia chính trị nhận định về tình hình Biển Đông và chỉ trích những hành động đi ngược lại với luật pháp quốc tế của Trung Quốc.
Sự kiện tàu Trung Quốc đâm chìm tàu cá Việt Nam, hàng loạt các tờ báo lớn, như Washington Post, New York Times, Reuters, AP, Bloomberg, AFP... đã có bài viết chỉ trích kịch liệt hành động vô nhân đạo này. Trong bài viết mang tiêu đề Trung Quốc đâm chìm tàu cá làm tăng căng thẳng với Việt Nam, trang tin Bloomberg đánh giá sự kiện là màn đối đầu nghiêm trọng nhất của hai nước.
Tờ New York Times nhận xét vụ đâm tàu diễn ra sẽ tiếp tục tăng cao căng thẳng giữa Trung Quốc và Việt Nam, theo sau việc chính quyền Bắc Kinh kéo giàn khoan nước sâu vào vùng biển Việt Nam. Tờ báo cũng dẫn lời Dennis J. Blasko - Cựu quan chức quân sự của Đại sứ quán Mỹ tại Bắc Kinh đánh giá vụ đâm tàu là điều Mỹ quan ngại vì nó có thể làm căng thẳng tình hình.
* Trong số ra ngày 22/6, tờ The Star của Malaysia đã đăng bài trả lời phỏng vấn của Giáo sư David Arase - chuyên gia ngành Chính trị quốc tế tại Trung tâm Đại học Nam Kinh (Trung Quốc), một cơ sở của Đại học Johns Hopkins (Mỹ) - về tình hình căng thẳng trên Biển Đông.
Liên quan đến việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương-981 và việc tàu Trung Quốc đâm chìm một tàu cá của Việt Nam trong Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa của Việt Nam, Giáo sư Arase cho rằng đây là mối quan ngại lớn vì có nguy cơ đẩy mọi việc vượt tầm kiểm soát.
Giáo sư Arase nhấn mạnh Trung Quốc coi Biển Đông là khu vực chiến lược nên rất muốn kiểm soát an ninh ở vùng biển này. Thời gian gần đây, Trung Quốc không ngừng đẩy mạnh các hành động quyết đoán hòng thúc đẩy các yêu sách chủ quyền ở Biển Đông, cho dù cả giới quan chức và học giả Trung Quốc đều không có đủ lý lẽ chứng minh vùng biển nào thuộc chủ quyền của mình. Vì vậy, các yêu sách của Trung Quốc có thể sẽ còn thay đổi và đây là cơ hội cho các nước ASEAN cùng hợp tác đối phó.
* Ngày 21/6, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ Jen Psaki cho biết Mỹ sẽ rất quan ngại nếu Trung Quốc hạ đặt các giàn khoan mới trong vùng biển tranh chấp ở Biển Đông. Phát biểu trong cuộc họp báo, bà Jen Psaki cho biết ở thời điểm hiện tại, Mỹ chưa có đủ thông tin về vị trí của các giàn khoan mới của Trung Quốc nên chưa đưa ra đánh giá. Tuy nhiên, nếu các giàn khoan này được hạ đặt trong vùng biển tranh chấp thì "đó sẽ là điều đáng lo ngại". Cũng theo bà Jen Psaki, Mỹ có lợi ích quốc gia trong việc duy trì hòa bình và ổn định ở khu vực. Cùng ngày, phát biểu trong cuộc họp báo chung sau cuộc hội đàm tại Nhà Trắng, cả Tổng thống Mỹ Barack Obama và Thủ tướng New Zealand John Key đều lên tiếng hối thúc Trung Quốc và các nước láng giềng giải quyết hòa bình các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông, tránh leo thang căng thẳng.
* Thông tấn xã Đài Loan ngày 21/6 đưa tin, cựu Cố vấn An ninh quốc gia Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống George W Bush, ông Stephen Hadley đã không nể nang chủ nhà, ngay tại Diễn đàn Hòa bình thế giới lần thứ 3 tại Bắc Kinh, khi thẳng thắn chỉ trích những hành vi khiêu khích của Bắc Kinh trên Biển Đông và Hoa Đông đang khiến láng giềng lo ngại.
Hội thảo này là "sự nối dài" thực lực ngoại giao Trung Quốc từ chính thức đến phi chính thức, Bắc Kinh mời khá nhiều quan chức nghỉ hưu của Mỹ, châu Âu, Nhật Bản và Nga tham dự, trong đó có ông Stephen Hadley.
Mặc dù là khách mời của Bắc Kinh, nhưng cựu Cố vấn An ninh quốc gia Mỹ đã không ngần ngại phê phán thẳng thắn và đích danh nước chủ nhà. Trong bài phát biểu với tiêu đề "Quan hệ nước lớn ở châu Á - Thái Bình Dương và hòa bình khu vực", Stephen Hadley đã ví những hành vi của Trung Quốc gần đây không khác gì thế kỷ 19, bao gồm những động thái khiêu khích ở Biển Đông và đơn phương tuyên bố áp đặt vùng nhận diện phòng không ở Hoa Đông. Ông Stephen Hadley nói: "Mỹ và các nước láng giềng của Trung Quốc đương nhiên phải nghi ngờ mong muốn của Bắc Kinh về việc xây dựng mô hình mới của quan hệ nước lớn, mặc dù Trung Quốc có giải thích của riêng họ".
Cựu cố vấn An ninh quốc gia Mỹ nêu rõ: Tại Trung Quốc hiện nay tồn tại một quan điểm gọi là "âm mưu luận", quan điểm này cho rằng Mỹ và các nước láng giềng của Trung Quốc đang hợp mưu đối phó với Bắc Kinh. Thậm chí một số người Trung Quốc cho rằng, không có Mỹ, quan hệ Trung Quốc với láng giềng sẽ tốt hơn nhiều. "Tuy nhiên tôi cần nhấn mạnh, nếu không có Mỹ, những vấn đề Trung Quốc phải đối mặt ở châu Á còn tồi tệ hơn nhiều".
Theo Nguyễn Chiến
Chinhphu.vn
Tại sao Nga không ủng hộ Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông? Trang tin The Diplomat (Nhật Bản) ngày 21/6 đăng tải bài viết có tiêu đề "Tại sao Nga không ủng hộ Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông", lý giải việc Moskva "kín tiếng" đối với tranh chấp tại vùng biển này. Bài viết có một số nội dung đáng chú ý như sau: Căng thẳng ở Biển Đông có bước leo thang...