Cài đặt lại quan hệ đồng minh
Chuyến thăm kéo dài 3 ngày vừa qua của Phó Tổng thống Mỹ Kamala Harris tới Philippines đã đánh dấu sự thay đổi mạnh mẽ trong mối quan hệ giữa hai nước đồng minh lâu đời, vốn đã rạn nứt đáng kể trong 6 năm cầm quyền (2016 – 2022) của cựu Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte.
Phó Tổng thống Mỹ Kamala Harris hôi kiên Tông thông Phillipines Ferdinand Marcos Jr., ngày 21/11/2022. Ảnh: AP
Dưới thời ông Duterte, quan hệ Philippines – Mỹ đã rơi xuống mức thấp nhất với việc Manila đơn phương hủy bỏ Thỏa thuận Lực lượng thăm viếng (VFA) ký năm 1998 và Thỏa thuận Tăng cường hợp tác quốc phòng (EDCA) ký năm 2014. Dù quyết định này được ông Duterte đảo ngược vào năm 2021, quan hệ giữa hai nước đồng minh vẫn nguội lạnh.
Tuy nhiên, quan hệ giữa hai nước đã nồng ấm trở lại sau chưa đầy 5 tháng cầm quyền của người kế nhiệm Ferdinand Marcos Jr., khi một loạt cuộc gặp cấp cao song phương diễn ra với tốc độ chưa từng thấy. Phó Tổng thống Harris là quan chức cấp cao nhất của Mỹ thăm Philippines kể từ khi ông Marcos nhậm chức hồi tháng 6 vừa qua. Trước bà Harris, Tổng thống Marcos đã gặp Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ Wendy Sherman vào tháng 6, tiếp Ngoại trưởng Antony Blinken tại Manila vào tháng 8 và có cuộc gặp trực tiếp đầu tiên với người đồng cấp Joe Biden vào tháng 9, bên lề kỳ họp Đại hội đồng Liên hợp quốc ở New York.
Theo giới phân tích, những cuộc gặp này cho thấy việc khởi động lại mối quan hệ với chính quyền mới ở Philippines là một ưu tiên của chính quyền Tổng thống Biden. Ngay trong cuộc gặp Tổng thống Marcos tại Điện Malacanang, Phó Tổng thống Mỹ Kamala Harris đã tái khẳng định mối quan hệ lâu đời giữa hai nước, nhấn mạnh cam kết mang tính kiên định của Washington với Manila.
Bà Harris tới thăm đảo Palawan ở phía Tây Nam Philippines. Tại đây, bà nhắc lại rằng Washington ủng hộ phán quyết năm 2016 của Tòa Trọng tài thường trực ở La Haye (Hà Lan) về Biển Đông, đồng thời nhấn mạnh cần tôn trọng những quy định và luật lệ quốc tế trên Biển Đông. Theo đánh giá của Giám đốc Sáng kiến minh bạch hàng hải châu Á (AMTI), ông Gregory Poling, sự hiện diện của Phó Tổng thống Harris ở Palawan gửi đi một “tín hiệu rõ ràng” rằng Mỹ sẽ có những động thái nhằm củng cố và duy trì các cam kết liên minh trong khu vực.
Không chỉ khẳng định cam kết an ninh, chuyến đi của bà Harris cũng cập nhật các thỏa thuận quân sự quan trọng giữa hai nước. Người phát ngôn Đại sứ quán Mỹ tại Philippines cho biết, Phó Tổng thống Harris đã thảo luận với Tổng thống Marcos về tầm quan trọng và lợi ích mà hai nước nhận được khi mở rộng quy mô EDCA, thỏa thuận cho phép quân đội Mỹ cất giữ các thiết bị và vật tư quốc phòng tại 5 căn cứ quân sự của Philippines, đồng thời cho phép quân đội Mỹ luân chuyển qua các căn cứ đó. Qua tham vấn, hai bên đã xác định được những địa điểm bổ sung mới theo đề xuất của Mỹ và đang hoàn thiện các kế hoạch cho bước tiếp theo. Giáo sư Aries Arugay của Đại học Philippines Diliman khẳng định đây là một thỏa thuận lớn và là một sự thay đổi lớn so với liên minh dưới thời chính quyền tiền nhiệm, cho thấy Mỹ đang thực sự xem Philippines là một phần quan trọng trong chiến lược địa chính trị ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương.
Ngoài ra, nhân chuyến thăm, hai bên đã thúc đẩy hợp tác trong hàng loạt lĩnh vực như y tế hay năng lượng sạch, nhất trí thành lập các diễn đàn mới về an ninh lương thực, đầu tư thiết lập mạng 5G, nâng cao kỹ năng cho công nhân Philippines làm việc trong ngành sản xuất công nghệ cao. Phó Tổng thống Harris tuyên bố khởi động các cuộc đàm phán liên quan hợp tác hạt nhân dân sự, trong khi Cơ quan Thương mại và Phát triển Mỹ sẽ mở một văn phòng tại Manila để tạo điều kiện đầu tư vào năng lượng và cơ sở hạ tầng, vốn là những ưu tiên chính của chính quyền Tổng thống Marcos.
Tất cả những điều này phản ánh nỗ lực của Washington nhằm củng cố mối quan hệ với đồng minh lâu đời nhất ở châu Á và cũng là mối quan hệ then chốt trong chiến lược của chính quyền Tổng thống Biden ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Nỗ lực tăng cường quan hệ đối tác này cũng được Philippines đón nhận và phản hồi nồng nhiệt.
Video đang HOT
Trong cuộc gặp với bà Harris, Tổng thống Marcos đã khẳng định, xuất phát từ mối quan hệ lâu đời, vững chắc và quan trọng giữa hai bên, tương lai của Philippines luôn bao gồm quan hệ với Mỹ. Theo ông, những biến động đang diễn ra, đặc biệt trong khu vực, cho thấy “những mối quan hệ đối tác này ngày càng trở nên quan trọng hơn”. Trước cuộc gặp, nhà lãnh đạo Philippines cũng khẳng định chuyến thăm của bà Harris đánh dấu sự phát triển trong quan hệ song phương.
Giáo sư Renato De Castro, chuyên gia nghiên cứu quốc tế tại Đại học De La Salle ở Manila, nhận định chuyến thăm của bà Harris “mang tính biểu tượng, tượng trưng cho sự ủng hộ của Mỹ dành cho Philippines.” Hơn thế nữa, Mỹ còn có thể giúp Philippines nâng cao vị thế trên thế giới. Theo ông Stephen Cutler, cựu tùy viên pháp lý của Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI), “Mỹ và Philippines có thể cùng nhau hợp tác giúp Manila phát huy khả năng và có vị trí xứng đáng trên trường quốc tế và điều này sẽ có lợi cho tất cả các bên.”
Giới quan sát cũng cho rằng, những bài học về tình trạng căng thẳng trong quan hệ đồng minh dưới thời cựu Tổng thống Duterte, cũng như bối cảnh toàn cầu ngày càng phức tạp khiến hai nước nhận thấy sự cần thiết phải củng cố hơn nữa mối quan hệ song phương và hợp tác hướng tới tương lai. Giáo sư Gregory Winger thuộc Đại học Cincinnati và ông Julio Amador, Chủ tịch Hiệp hội vì lợi ích quốc gia ở Philippines đều đánh giá, để đối phó với các mối đe dọa mới nổi và những mối đe dọa phát sinh từ biến đổi khí hậu, Mỹ và Philippines cần phát triển quan hệ đối tác không chỉ về mặt quân sự mà còn về mặt chính trị.
Bên cạnh đó, việc cài đặt lại mối quan hệ với Washington cũng phù hợp với chính sách đối ngoại cân bằng quan hệ với các nước lớn mà chính quyền Tổng thống Marcos theo đuổi. Trước đó, ông đã khẳng định “lợi ích của người dân Philippines và lợi ích quốc gia sẽ được đặt lên hàng đầu và sẽ không bao giờ được thỏa hiệp”. Theo các chuyên gia, đến nay, Tổng thống Marcos vẫn xử lý tốt quan hệ với Mỹ và Trung Quốc, khi vừa tìm cách duy trì và phát triển quan hệ đồng minh với Mỹ, vừa tiếp tục hợp tác về kinh tế với Trung Quốc mà không quá phụ thuộc vào siêu cường nào.
Nhìn chung, chuyến thăm của Phó Tổng thống Harris đã thúc đẩy hơn nữa thông điệp rằng Mỹ ngày càng nghiêm túc trong việc cải thiện quan hệ với Philippines. Như nhận định của ông Daniel Russel, cựu cố vấn Nhà Trắng về các vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương, “đầu tư vào tiếp xúc cấp cao là bước đi hợp lý để khôi phục hợp tác sâu sắc trên mọi lĩnh vực với một đồng minh trẻ trung, đông dân, thịnh vượng và giữ vị trí chiến lược”. Có thể nói, sau 6 năm bất ổn, chuyến thăm này sẽ giúp quan hệ giữa Mỹ và Philippines một lần nữa sát cánh “vai kề vai”.
Thiếu vũ khí, các đồng minh của Ukraine đứng trước lựa chọn khó khăn
Gửi hàng tỉ USD vũ khí và thiết bị quân sự cho Kiev, các nước đồng minh của Ukraine đang phải lo cân đối kho dự trữ nếu không muốn đẩy chính mình vào rủi ro.
Binh sĩ Ukraine nã pháo vào các vị trí của Nga gần Bakhmut, vùng Donetsk, Ukraine, ngày 20/11/2022. Ảnh: AP
Theo trang Defensenews, các quan chức quốc phòng hàng đầu châu Âu cho biết tình trạng thiếu vũ khí tại các nước đồng minh phương Tây của Ukraine đang buộc họ phải có những cuộc đàm phán khó khăn về cách cân bằng sự hỗ trợ dành cho Ukraine với những lo ngại về nguy cơ chính mình trở thành mục tiêu tấn công.
Các thành viên NATO đã gửi vũ khí và thiết bị trị giá hàng tỷ USD cho Ukraine đang thảo luận về mức dự trữ vũ khí mà họ cần để đáp ứng các nghĩa vụ của mình theo hiệp ước phòng thủ chung. Các quyết định mà những nước này phải đối mặt có thể gây ra hậu quả đối với an ninh của chính họ và đối với Ukraine trong cuộc chiến đẩy lùi lực lượng Nga.
Chủ tịch Ủy ban quân sự của NATO, Đô đốc Rob Bauer phát biểu tại Diễn đàn An ninh quốc tế Halifax vào cuối tuần trước rằng, "Khi tiếp tục cung cấp đạn dược cho Ukraine, bạn phải đánh giá rủi ro gặp phải đối với sự sẵn sàng của chính mình, bạn sẽ phải tính đến mối đe dọa".
Ông Bauer cho biết tình trạng căng thẳng đối với các kho dự trữ vũ khí đã xảy ra "trên diện rộng" và đặc biệt nghiêm trọng về đạn dược. Trong những năm trước khi một số quốc gia viện trợ cho Ukraine, họ đã duy trì kho dự trữ ở mức một nửa công suất hoặc ít hơn vì họ thấy ít rủi ro hoặc không thể chi nhiều hơn, và áp dụng cách tiếp cận "vừa đúng lúc, vừa đủ" đối với ngành công nghiệp quốc phòng . "Vì vậy, sự cấp bách hiện nay đã được thấy rõ, tôi nghĩ ở hầu hết các quốc gia", ông Bauer nói.
Theo chuyên gia này, sau khi Nga chịu những tổn thất về binh lính, xe tăng và máy bay trên chiến trường ở Ukraine, các đồng minh của Ukraine phải thực hiện những tính toán phức tạp về khả năng và tốc độ Moskva có thể tái thiết lực lượng.
Phát biểu qua video tại Diễn đàn Halifax, Tổng thống Volodymyr Zelensky cảnh báo không nên cho Nga nghỉ ngơi ngay lúc này. Ông Zelenksy đã bác bỏ ý tưởng về một thỏa thuận ngừng bắn ngắn hạn với Nga. "Việc chấm dứt chiến tranh như vậy không đảm bảo hòa bình. Nga hiện đang tìm kiếm một thỏa thuận ngừng bắn ngắn, một thời gian nghỉ ngơi để lấy lại sức mạnh. Một số người có thể gọi đó là sự kết thúc chiến tranh, nhưng việc tạm dừng như vậy sẽ chỉ khiến mọi thứ trở nên tồi tệ hơn", ông Zelensky nói.
Tham mưu trưởng Quân đội Canada, Tướng Wayne Eyre, chia sẻ rằng việc cân bằng giữa nhu cầu của Ukraine về viện trợ sát thương và phi sát thương với những gì quân đội Canada cần "là điều khiến tôi thao thức cả đêm."
Tướng Eyre cho biết tại diễn đàn Halifax: "Đó là một phép tính liên tục về nơi chúng ta có thể cung cấp và những gì chúng ta cần giữ lại cho lực lượng của mình, cho những tình huôgs bất ngờ trong tương lai và những gì ngành công nghiệp có thể sản xuất".
Lưu tâm đến mức độ dự trữ đạn dược của Canada sau khi Ottawa viện trợ loạt lựu pháo M777 và hơn 25.000 viên đạn pháo cho Ukraine vào đầu năm nay, Tướng Eyre cho biết ông đã đến thăm Tập đoàn Hệ thống Chiến thuật và Vũ khí General Dynamics vào đầu tháng này để xem những yếu tố gì có thể giúp tăng cường sản xuất đạn 155mm.
Tướng Eyre nói: "Thật không dễ dàng khi bạn có chuỗi cung ứng rất phức tạp, đặc biệt là với các bộ phận cấu thành của vũ khí, đạn dược được yêu cầu."
Vũ khí viện trợ được chuyển từ Litva tới sân bay Boryspil ở Kiev. Ảnh: AFP/Getty Images
Đối với những quốc gia đã bị cắt giảm ngân sách quân sự nhiều lần kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, một bước ngoặt đột ngột đang diễn ra. Những thay đổi "địa chấn" đang xảy ra ở Thụy Điển, quốc gia đang đối mặt lo ngại bị Nga trả đũa sau khi xin gia nhập NATO.
Trong một cuộc phỏng vấn, chỉ huy tối cao quân đội Thụy Điển, Tướng Micael Bydén, cho biết: "Trong các lực lượng vũ trang, chúng tôi đã có 30 năm làm việc trong tình trạng cắt giảm biên chế, có nhiều thời gian nhưng không có tiền. Bây giờ tham vọng đã có, ngân sách đang chạy đua. Tham vọng và các yêu cầu cao; thời gian thì có hạn."
Tướng Bydén cho biết, một thách thức là gần như mọi quốc gia phương Tây đang mong muốn ngành công nghiệp quốc phòng phát triển mạnh mẽ để đáp ứng đồng thời nhu cầu quốc phòng trong nước lẫn việc hỗ trợ cho Ukraine.
Ông nói: "Nếu bạn xếp hàng quá xa, bạn sẽ không nhận được thứ mình cần, bạn sẽ không được giao hàng. Chúng tôi đang đối thoại chặt chẽ với ngành công nghiệp quốc phòng, nơi nhu cầu lớn hơn khả năng đẩy mạnh sản xuất nếu chúng tôi vẫn tiếp tục theo cách trước đây".
Lầu Năm Góc cũng đang thảo luận với ngành công nghiệp về cách vừa tăng cường sản xuất vũ khí mới vừa phối hợp giữa các đồng minh. Trong khi chờ đợi, Bộ trưởng Quốc phòng Lloyd Austin đã thúc ép các đồng minh phải "cung cấp thêm năng lực".
Đó là một thách thức gay gắt đối với một số thành viên nhỏ của NATO, như Hà Lan, quốc gia thậm chí từ trước khi viện trợ hơn 800 triệu USD cho Ukraine đã chật vật để có thể đáp ứng các nghĩa vụ trong NATO. Tướng Onno Eichelsheim, Bộ trưởng Quốc phòng Hà Lan, cho biết kho dự trữ của Hà Lan "không cao" khi Hà Lan gửi cho Ukraine đạn pháo 155mm và tên lửa phòng không.
Bộ trưởng Eichelsheim nói: "Chúng tôi bắt đầu với những kho dự trữ không được lấp đầy hoàn toàn, không hoàn toàn sẵn sàng, không có tất cả vật tư để hỗ trợ những gì chúng tôi cần cho NATO. Điều đó có nghĩa là tôi phải ngay lập tức lấp đầy dự trữ bằng cách ký hợp đồng với ngành công nghiệp."
Chính phủ Hà Lan và các đồng minh châu Âu khác đã thảo luận với ngành công nghiệp về kế hoạch mua sắm dài hạn của họ để khuyến khích tăng sản lượng, cũng như cách ưu tiên giao hàng dựa trên quốc gia nào cần vũ khí nhất. Mục tiêu của họ là xây dựng ngành công nghiệp quốc phòng của châu Âu và không phụ thuộc quá nhiều vào Mỹ.
Tướng Eichelsheim nói: "Chúng ta phải phối hợp trong lục địa châu Âu tốt hơn, bởi vì chúng ta phải thực hiện quyền tự chủ chiến lược nhất định. Bạn không thể chỉ dựa vào Mỹ hoặc các đối tác khác nếu nhu cầu cao như vậy".
Thông điệp từ chuyến thăm Philippines của Phó Tổng thống Mỹ Một hòn đảo vốn nổi tiếng về du lịch tại Philippines nay trở thành địa điểm gây quan tâm về mặt chính trị khi Phó Tổng thống Mỹ Kamala Harris ghé thăm. Phó Tổng thống Kamala Harris (trái) trong cuộc gặp Tổng thống Philippines Ferdinand Marcos Jr. tại Manila ngày 21/11. Ảnh: AP Kênh CNN (Mỹ) cho biết Palawan là nơi có các...