Các vua Việt Nam đều quan tâm khẳng định chủ quyền
Các vị vua chúa Việt Nam rất quan tâm khẳng định chủ quyền tại 2 quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa một cách lâu dài, ổn định. Đặc biệt là vua Minh Mạng.
Giới nghiên cứu sử phương Đông đều chung đánh giá: Minh Mạng là vị vua ở phương Đông có tầm nhìn chiến lược về biển đảo sớm nhất trong vùng. Trong khi các quốc gia xung quanh như Trung Quốc chỉ mải lo phát triển phần lục địa thì vua Minh Mạng đã có nhiều quyết sách mạnh mẽ, táo bạo để củng cố chủ quyền, tập trung khai thác hải sản vật trên 2 quần đảo này. Ông đã cho trồng cây, xây miếu thờ, xây nhà ở trên Hoàng Sa…
Chủ quyền chưa bao giờ đứt khúc
Năm 1773, quân Tây Sơn làm chủ dải đất từ Quảng Nam đến Bình Thuận sau 2 năm khởi nghĩa. Đội Hoàng Sa ở xã Vĩnh An tỉnh Quãng Ngãi bấy giờ đặt dưới sự kiểm soát của quân Tây Sơn. Hoạt động của đội Hoàng Sa vẫn tiếp tục và được chính quyền Tây Sơn quan tâm dù đang “lưỡng đầu thọ địch” với phía Bắc là nhà Trịnh, phía Nam là nhà Nguyễn.
Trước khi lên đường ra Hoàng Sa, ông Hà Liễu, cai hợp phường Cù Lao Ré (đảo Lý Sơn) gửi đơn lên chính quyền Tây Sơn. Trong đơn có đoạn: “Bây giờ chúng tôi lập hai đội Hoàng Sa và Quế Hương như cũ gồm thêm dân ngoại tịch, được bao nhiêu xin làm sổ sách dâng nạp, vượt thuyền ra các đảo, các cù lao ngoài biển tìm nhặt các vật hạng đồng thiếc, hải ba, đồi mồi được bao nhiêu xin dâng nạp”.
Ngày 14/2 năm Thái Đức thứ 9 (Năm 1786), quan Thái phó Tổng lý quân binh dân chức vụ thượng tướng công có chỉ thị gửi đội Hoàng Sa trả lời như sau: “Sai Hội đức hầu, cai đội Hoàng Sa luôn xem xét, đốc suất trong đội cắm biển hiệu thủy quân, cỡi 4 chiếc thuyền câuvượt biển, thẳng đến Hoàng Sa cùng các xứ cù lao ngoài biển, tìm nhặt đồ vàng, bạc, đồng và các thứ đại bác, tiểu bác, đồi mồi, vỏ hải ba cùng đá quý đều chở về kinh tập trung, nộp theo lệ. Nếu ngạo mạn càn bậy không đến, lại gian dối lấy bớt các vật quý hoặc sinh sự với dân làm muối, làm cá sẽ bị trị tội…”.
Thời gian sau, nhà Tây Sơn sụp đổ, nhà Nguyễn quản lý cả đất nước vào năm 1802, công cuộc khai thác, khẳng định chủ quyền ở Trường Sa và Hoàng Sa được đẩy mạnh, tăng cường hơn nữa.
Chỉ một năm sau khi lên ngôi Hoàng đế, tháng 7 năm Quý hợi (1803), vua Gia Long cho củng cố lại đội Hoàng Sa. Sách Đại nam thực lục chính biên đệ nhất kỉ, quyển 12 chép rằng: “Lấy cai cơ Võ Văn Phú làm thủ ngự cửa biển Sa Kỳ, sai mộ dân ngoại tịch lập lại đội Hoàng Sa”. Và vào tháng giêng năm Ất hợi (1815) vua Gia Long quyết định: “Sai bọn Phạm Quang Ảnh thuộc đội Hoàng Sa ra Hoàng Sa xem xét đo đạc thủy trình”.
Từ năm 1816, nhà vua còn cử cả thủy quân cùng đội Hoàng Sa ra đảo. Những người Pháp cộng tác với vua Gia Long cũng ghi rõ sự kiện này. Giám mục Taberd đã viết: “Chỉ đến năm 1816 mà ngài (vua Gia Long – TG) đã long trọng treo tại đó (quần đảo Hoàng Sa – TG) lá cờ của xứ Đàng trong”. Ghi chép của nhà truyền giáo Gutzlaff cũng cho biết thêm rằng, thời Gia Long đã thiết lập một trại quân nhỏ để thu thuế và bảo trợ người đánh cá Việt Nam.
Ở đây cần nói thêm, những ghi chép của các tác giả phương Tây đương thời chỉ là ghi nhận sự kiện xảy ra. Vì không phải là những nhà nghiên cứu nên các tác giả trên không đề cập đến chủ quyền của Việt Nam đã có trên Hoàng Sa từ trước đó khá lâu.
Châu bản ngày 13/7 năm Minh Mạng thứ 16 về việc trị tội một số quan lại và xét thưởng một số dân binh
Video đang HOT
Xây miếu, trồng cây trên Hoàng Sa và Trường Sa
Các vị vua chúa Việt Nam rất quan tâm khẳng định chủ quyền tại 2 quần đảo này một cách lâu dài, ổn định. Đặc biệt là vua Minh Mạng (1791 – 1841). Từ thời vị vua này trở đi hoạt động của thủy quân trên đảo Hoàng Sa bên cạnh đội Hoàng Sa trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã thành lệ hàng năm. Lực lượng thủy quân giống như “lực lượng đặc biệt” gồm kinh phái, tỉnh phái và dân binh địa phương có nhiệm vụ xác lập và thực thi chủ quyền trên hai quần đảo.
Các vua triều Nguyễn trực tiếp theo sát và ra các chỉ dụ rất cụ thể cho “lực lượng đặc biệt”. Vua Minh Mạng còn sát sao hơn, có chỉ dụ cho từng chuyến đi ra đảo.
Năm Minh Mạng thứ 16 (Năm 1835) nhà vua đã chuẩn y lời tâu của Bộ Công cho tỉnh Quảng Ngãi cất miếu tại Hoàng Sa theo thể chếnhà đá. Sách Đại Nam thực lục chính biên, quyển 154 cho biết, mùa hạ năm đó nhà vua sai cai đội thủy quân Phạm Văn Nguyên đem lính và giám thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định chuyên chở vật liệu đến dựng miếu cách tòa miếu cổ 7 trượng. Bên trái và phía trước miếu xây bình phong. Ba mặt miếu đều trồng các loại cây.
Sách Việt sử cương giám khảo lược của Nguyễn Thông chép rằng, các quân nhân đến đảo thường mang theo hạt quả thủy nam rải ở trong và ngoài miếu cho cây mọc để tìm dấu mà nhận. Vua Minh Mạng cũng nói rõ, thuyền buôn đi qua đây thường bị hại, va phải đá ngầm chìm đắm nên trồng cây cốt làm dấu để nhận ra đảo mà tránh.
Năm Minh Mạng thứ 17 (1836), nhà vua phê (châu phê): “Thuyền đi đến đâu, cắm mốc tới đó để lưu dấu”. Cạnh đó, nhà vua còn ra các chỉ dụ thưởng phạt thường xuyên cho các chuyến công vụ ra đảo. Thông thường, dân binh đội Hoàng Sa luôn được thưởng từ 1 đến 2 quan tiền và miễn thuế vì cực khổ vất vả theo đoàn. Còn các viên chỉ huy như cai đội, chánh suất đội, các viên chức tỉnh phái mà chậm trễ, lơ là đều bị trị tội rất nặng.
Theo Đại Nam thực lục chính biên, thời gian chuẩn bị đi Hoàng Sa và Trường Sa là từ hạ tuần tháng giêng. Ngay từ năm Minh Mạng thứ 15 nhà vua đã có chỉ dụ cho các tỉnh ven biển phải đóng 2 – 3 thuyền nhanh, tuyển mộ dân ven biển làm thợ lái, thủy thủ. Mỗi thuyền cần đủ 20 người làm thủy binh thuộc tỉnh để khi khẩn cấp sẽ tuần tiễu, thông báo, vận tải cho nhanh.
Châu bản thời nhà Nguyễn về Hoàng Sa
Ngoài việc tổ chức khai thác như trước kia, thời vua Minh Mạng còn xúc tiến các hoạt động đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ, cắm cột mốc, dựng bia. Từ năm 1836 nhà vua còn quy chuẩn các hoạt động thể hiện chủ quyền. Châu phê của nhà vua năm Minh Mạng thứ 17 ghi rõ: “Mỗi thuyền vãng thám Hoàng Sa phải đem theo 10 tấm bài gỗ (cột mốc) dài 4,5 thước, rộng 5 tấc. Trên mặt bài khắc dòng chữ: “Minh Mạng thập thất niên Bính thân thủy quân chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật phụng mệnh vãng Hoàng Sa tương đồ chi thử, hữu chỉ đẳng tư” (Năm Minh Mạng thứ 17, năm Bính thân, thủy quân chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh ra Hoàng Sa xem xét, đo đạc, đến đây lưu dấu để ghi nhớ)”.
Mỗi năm, cột mốc đều ghi rõ niên hiệu, năm, chức vụ, họ tên viên chỉ huy “lực lượng đặc biệt” được phụng mệnh triều đình làm nhiệm vụ đánh dấu để ghi nhớ. Theo những sử sách còn lưu giữ tên những người chỉ huy đội thủy quân đặc biệt của các năm như sau: Năm Minh Mạng thứ 16 là cai đội thuyền Phạm Văn Nguyên; năm Minh Mạng thứ 17 là chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật; năm Minh Mạng thứ 18 là thủy sư suất đội Phạm Văn Biện… Tính ra số đảo được đánh dấu mốc rất lớn. Tuy nhiên, do trải qua nhiều biến cố lịch sử chiến tranh nên bị thất lạc không ít nên chưa tổng kết được có bao nhiêu đảo đã được cắm cột mốc.
(Còn nữa)
Theo Duy Chiến
Vietnamnet
*Bài có sử dụng tư liệu nghiên cứu của tiến sĩ Hãn Nguyên Nguyễn Nhã, người sang lập và cố vấn Quỹ Văn Hóa Giáo dục tại TP.HCM
Theo Dantri
"Giàn khoan không thể là lãnh thổ di động của TQ"
TQ đang cố biến giàn khoan 981 thành một lãnh thổ di động để áp đặt chủ quyền phi pháp với toàn bộ Biển Đông.
Hồi tuần trước, chính phủ Philippines đã chính thức gửi kháng thư qua đường ngoại giao phản đối Trung Quốc sau khi xác nhận Trung Quốc đang đổ đất đá trên bãi cạn Ken Nan thuộc quần đảo Trường Sa.
Kháng thư này được gửi đi sau khi Ngoại trưởng Philippines Albert del Rosario thông báo về hoạt động đổ đất đá này tương tự như các hành động khác của Trung Quốc tại bãi đá Gavin và Calderon hồi tháng Tư và bày tỏ quan ngại về sự "bành trướng hung hăng" của Trung Quốc trong các khu vực tranh chấp trên Biển Đông.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Philippines Charles Jose cho rằng việc Trung Quốc tiếp tục đào đắp tại các bãi cạn này là bằng chứng chứng tỏ Bắc Kinh "đang có ý định tạo dựng lãnh thổ trên Biển Đông", đi ngược lại Tuyên bố các bên về Ứng xử trên Biển Đông (DOC) ký kết năm 2002.
Trung Quốc đang đẩy mạnh hoạt động đào đắp tại các bãi cạn trên Biển Đông
Ông Jose phát biểu: "Các hành động đơn phương và khiêu khích của Trung Quốc khiến chúng tôi tin rằng họ đang theo đuổi một kế hoạch hung hăng nhằm áp đặt đường chín đoạn trên Biển Đông."
Philippines đã kiện tuyên bố chủ quyền "quá đáng" của Trung Quốc lên Tòa Trọng tài Thường trực của Liên Hợp Quốc và yêu cầu tòa án này làm rõ quyền và nghĩa vụ của các bên có liên quan trong những vùng biển mà Trung Quốc ngang ngược tuyên bố là "chủ quyền không thể tranh cãi".
Thế nhưng, trong khi tòa án quốc tế đang xem xét đơn kiện của Philippines, Trung Quốc vẫn ngang nhiên thực hiện các hành động tập kết vật liệu, đất đá trên các bãi cạn ở quần đảo Trường Sa. Ngoài ra, Trung Quốc còn kéo cả giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, bất chấp luật pháp và thông lệ quốc tế.
Những hành động đơn phương này của Trung Quốc bộc lộ mưu đồ của họ, đó là vẽ lại bản đồ lãnh thổ trên Biển Đông theo ý chí của Bắc Kinh. Trong đó, việc kéo giàn khoan 981 vào vùng biển Việt Nam có thể là một bước ngoặt mới trong quá trình bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc mà không cần sử dụng lực lượng quân sự để xâm chiếm.
Trong một bài viết đăng trên tờ Wall Street Journal, chuyên gia phân tích Andrew Browne viết rằng khi Tập đoàn Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) hạ thủy giàn khoan nước sâu đầu tiên của mình, tổng giám đốc của nó đã tuyên bố đây là "một lãnh thổ quốc gia di động và là một vũ khí chiến lược" của Trung Quốc.
Theo ông Browne, khái niệm "lãnh thổ quốc gia di động" đầy mỹ miều được Tổng giám đốc CNOOC Wang Yilin đưa ra này có vẻ không phù hợp trong hoàn cảnh hiện nay. Ông này đặt câu hỏi: "Liệu Trung Quốc, thông qua một lãnh đạo tập đoàn dầu khí, có thực sự tuyên bố rằng một giàn khoan có đầy đủ chủ quyền ở bất cứ nơi nào nó hoạt động như một hòn đảo hay không?"
Bắc Kinh âm mưu biến giàn khoan 981 thành một lãnh thổ di động để khẳng định chủ quyền
Chuyên gia này viết tiếp: "Câu trả lời là có. Trung Quốc thiết kế giàn khoan khổng lồ trị giá 1 tỉ USD này để kéo đi khắp Biển Đông, nơi Trung Quốc tuyên bố chủ quyền với gần như toàn bộ diện tích."
"Và giống như một tiền đồn của Trung Quốc, giờ đây giàn khoan đó đang được bảo vệ bởi hàng chục tàu bè và máy bay bất chấp phản ứng quyết liệt của phía Việt Nam," ông Browne viết.
Chuyên gia Browne cho rằng trong cuộc đua giành quyền kiểm soát Biển Đông, "Trung Quốc luôn khôn ngoan sử dụng các công trình mà họ cho là hợp pháp để biện hộ cho các bước đi của mình, dù chúng có đáng ngờ đến mức nào với các quốc gia láng giềng đi chăng nữa."
Theo chuyên gia này, ngoài các công cụ răn đe là Hạm đội 7 và lực lượng quân sự, Mỹ cần phải sử dụng các công cụ hợp pháp khác để ngăn ngừa tham vọng bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông, bởi Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) là công cụ tối thượng để giải quyết các tranh chấp trên biển.
Dù Trung Quốc có đưa ra mỹ từ nào để che đậy âm mưu của họ đi nữa, khái niệm "lãnh thổ quốc gia di động" trên biển hoàn toàn vô giá trị về luật pháp quốc tế, bởi nó chỉ là công cụ phục vụ cho tham vọng độc chiếm Biển Đông của Bắc Kinh.
Theo Khampha
Cuộc giao lưu kỳ lạ giữa Hoàng Sa "Có lẽ đây là chương trình tuyệt vời nhất mà tôi được tham gia. Tôi cảm phục ý chí của các bạn, dù ở đây có nhiều hiểm nguy đe dọa nhưng các bạn vẫn rất tỉnh táo và yêu đời", Ông Robert Marthew McPride (người Anh, phóng viên đài Al Jazeela) nói về cuộc giao lưu. Sau cả ngày quần nhau quyết...