Các thuố.c làm tăng đường má.u
Thường khi mắc bệnh như cảm cúm, viêm khớp, đau bụng… các bệnh nhân đái tháo đường (BN ĐTĐ) hay thấy đường má.u (ĐM) tăng lên. Tuy nhiên rất ít người biết rằng nguyên nhân là do các thuố.c dùng để điều trị bệnh đó cũng góp phần làm ĐM tăng hơn nữa, thậm chí tăng rất cao và đòi hỏi phải điều trị can thiệp tích cực.
Bản chất các thuố.c này là những nội tiết tố được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau. Nhìn chung, hầu hết các nội tiết tố đều có khả năng gây tăng ĐM do thúc đẩy tăng tổng hợp thêm nhiều đường glucose mới hoặc do làm giảm tác dụng của insulin ở các mô.
Glucocorticoid, một nội tiết tố của tuyến thượng thận, được sử dụng khá rộng rãi trong điều trị viêm khớp, hen phế quản, dị ứng… Các loại thuố.c glucocorticoid thường dùng là prednisolon, methylprednisolon, dexamethasone… Dù được sử dụng theo đường uống, hay tiêm truyền tĩnh mạch, tiêm tại khớp… thì thuố.c này đều có thể làm tăng ĐM, thậm chí gây tăng ĐM nặng. Ngay một số người không mắc bệnh ĐTĐ nếu phải điều trị glucocorticoid dài ngày cũng có thể mắc bệnh. Nguyên nhân là do glucocorticoid không những làm tăng tổng hợp glucose mà còn làm tăng đề kháng insulin (làm giảm tác dụng của insulin) .
Bệnh nhân đái tháo đường điều trị tại Bệnh viện Nội tiết TW. Ảnh: TM
Nội tiết tố tuyến giáp (L-T4) với các biệt dược như levothyroxin, levothyrox, L-thyroxin… Thuố.c này thường được dùng để điều trị cho những người bị suy tuyến giáp trạng, mà một số BN suy tuyến giáp lại có kèm theo bệnh ĐTĐ. Tuy nhiên tăng ĐM chỉ xảy ra khi BN đó được điều trị L-thyroxin liều cao, còn với các BN điều trị liều thấp hoặc trung bình và ở trong tình trạng bình giáp thì rất hiếm khi có tăng ĐM. Cơ chế gây tăng ĐM của nội tiết tố tuyến giáp chưa được biết rõ nhưng một phần là do thuố.c làm tăng đề kháng dẫn đến làm giảm tác dụng của insulin. Thuố.c tránh thai đường uống có bản chất là các steroid (estrogen, progesterone) có khả năng gây tăng ĐM do cũng làm tăng đề kháng với insulin ở các mô. Nguy cơ làm tăng ĐM của thuố.c gia tăng ở các phụ nữ bị thừa cân hoặc béo phì hoặc có tiề.n sử bị ĐTĐ thai kỳ. Tuy nhiên cần nhấn mạnh là các thuố.c tránh thai đường uống, cũng giống như 2 loại thuố.c nêu trên, không phải là chống chỉ định cho các BN ĐTĐ. Ngoài các thuố.c có tác dụng nội tiết nêu trên thì còn rất nhiều thuố.c được sử dụng điều trị nhiều loại bệnh khác cũng có thể làm tăng ĐM. Trong danh sách này, nhóm thuố.c điều trị tăng huyết áp là phổ biến nhất. Các thuố.c lợi tiểu như furosemide, bumetanide, acetazolamide, indapamide đặc biệt là thiazide điều trị tăng huyết áp, suy tim. Thuố.c có thể gây tăng ĐM do trực tiếp làm giảm tiết insulin ở tụy và làm tăng đề kháng với insulin. Cơ chế gián tiếp là hầu hết các thuố.c lợi tiểu này đều gây thải nhiều kali, làm hạ kali má.u vì vậy cũng có ảnh hưởng đến quá trình tiết insulin ở tụy (vốn cần đủ kali má.u). Diazoxide: Đây cũng là một loại thuố.c lợi tiểu có tác dụng hạ huyết áp mạnh và cũng gây tăng ĐM mạnh. Khả năng gây tăng ĐM của diazoxide mạnh đến mức nó được chọn làm tác nhân gây bệnh ĐTĐ cho động vật thí nghiệm. Cơ chế là diazoxide ức chế sản xuất insulin ở tụy. Các thuố.c chẹn beta giao cảm điều trị THA, suy tim, nhịp tim nhanh… Các thuố.c này có thể gây tăng ĐM nhẹ do vừa làm tăng sản xuất thêm đường glucose mới vừa làm giảm sản xuất insulin ở tụy. Phenytoin, một loại thuố.c điều trị biến chứng thần kinh của bệnh ĐTĐ (làm giảm đau), có thể gây tăng ĐM nhiều do ức chế giải phóng insulin từ tụy. Phenobarbital sodium là một loại thuố.c a.n thầ.n gây ngủ lại chỉ có thể gây tăng ĐM gián tiếp ở những BN ĐTĐ được điều trị bằng các thuố.c sulphonylurea. Nguyên nhân là phenobarbital làm tăng chuyển hoá sulphonylurea qua gan, làm tăng thải trừ sulphonylurea ra khỏi cơ thể, do đó làm giảm tác dụng hạ ĐM của các thuố.c này. Nicotinic acid, một loại thuố.c điều trị rối loạn lipid má.u ở các BN ĐTĐ cũng có thể gây tăng ĐM nhẹ. Cơ chế còn chưa được biết rõ nhưng người ta giả thiết là nicotinic acid gây đề kháng insulin, do vậy làm giảm tác dụng của insulin. Cyclophosphamide – thuố.c ức chế miễn dịch, điều trị bệnh khớp, ung thư… và các thuố.c chống viêm giảm đau không phải là steroid (AINS) điều trị bệnh viêm khớp, nicotin có trong khói thuố.c l.á, caffein trong cà phê… qua các nghiên cứu đều có thể làm tăng ĐM nhưng rất ít và hiếm khi gây ảnh hưởng đến quá trình điều trị bệnh ĐTĐ. Tuy nhiên các BN ĐTĐ đều được khuyến cáo không nên lạm dụng các thuố.c này nhất là các thuố.c chống viêm giảm đau (AINS), đồng thời cũng nên bỏ thuố.c l.á và hạn chế uống cà phê. Khá ngạc nhiên là thuố.c dầu cá có chứa acid béo marine (omega -3 fatty acid) đôi khi được dùng để điều trị tăng triglyceride má.u ở BN ĐTĐ lại cũng có thể làm tăng ĐM tuy không nhiều. Nó chỉ có thể gây khó khăn cho việc kiểm soát ĐM khi dùng với liều cao mà thôi. Các loại thuố.c dưới dạng sirô, gói bột có chứa đường, thường là các thuố.c giảm ho hoặc thuố.c điều trị cảm cúm. Trong nhóm này có rất nhiều loại thuố.c, trong thành phần của thuố.c có chứa đường để tạo vị ngọt và mùi thơm nhằm giúp người bệnh dễ uống thuố.c. Ngoài ra còn một số thuố.c khác như các thuố.c chẹn kênh canxi điều trị THA (nifedipin, amlodipin, lacidipin) có khả năng gây tăng ĐM rất nhẹ. Khi BN ĐTĐ bị ốm cần dùng thêm thuố.c mới, tuy không thể luôn chọn được loại thuố.c không gây ảnh hưởng đến ĐM nhưng chúng ta hoàn toàn có thể khống chế được tác dụng không mong muốn này. Muốn vậy, các BN ĐTĐ phải có kiến thức về bệnh ĐTĐ và giữ liên hệ với các bác sĩ chuyên khoa ĐTĐ để hỏi ý kiến khi cần. ThS. Nguyễn Quang Bảy Theo Suckhoedoisong.vn
Da vỏ cam
Tại sao lại có hiện tượng da vỏ cam? Làm thế nào để biết mình có bị hiện tượng da vỏ cam?
Da vỏ cam là chỉ hiện tượng ứ đọng mỡ trong các mô dưới da, làm cho da thô nhám và lồi lõm. Những vùng da thường bị tích mỡ là ở các vùng đùi, mông và bụng. Tình trạng này thường xảy ra ở nữ giới tuổ.i trên 15, không phụ thuộc vào cân nặng. Khi có sự tích mỡ dưới da, các túi mỡ sẽ chèn ép các mạch má.u nhỏ gây cản trở cung cấp má.u và chất dinh dưỡng cho da, làm giãn các sợi đàn hồi và gây xơ cứng mô liên kết dưới da..., làm cho da trở nên thô nhám, lồi lõm và không còn săn chắc nữa.
Các nguyên nhân sau đây gây ra tình trạng da vỏ cam: thay đổi về nội tiết tố, tuổ.i tác, dinh dưỡng không hợp lý, uống không đủ lượng nước so với nhu cầu của cơ thể... Muốn biết mình có bị da vỏ cam hay không, bạn có thể thử nghiệm theo cách sau: dùng ngón tay cái và ngón tay trỏ véo da ở vùng mặt ngoài của đùi để xem da có bị lồi lõm không. Nếu da có nếp gấp và vết nhăn, nhưng không có hiện tượng lún thì da bạn hoàn toàn khoẻ mạnh. Nếu da không gợn nếp khi ở tư thế đứng hoặc nằm, nhưng khi véo da cho thấy có hiện tượng nệm lún thì tình trạng tích mỡ mới ở giai đoạn 1. Da gợn nếp tự nhiên chỉ khi ở tư thế đứng, không thấy được ở tư thế nằm là tình trạng tích mỡ ở giai đoạn 2. Nếu da gợn nếp tự nhiên cả ở tư thế đứng lẫn tư thế nằm thì tình trạng tích mỡ của bạn ở mức cao nhất.
Theo Sức khỏe đời sống
Chiều cao tỉ lệ thuận với nguy cơ ung thư buồng trứng Một nghiên cứu được công bố trên tạp chí PLoS Medicine cho chiều cao của phụ nữ tỉ lệ thuận với nguy cơ mắc bệnh ung thư buồng trứng. Nghiên cứu này đã được thử nghiệm tại 47 trung tâm nghiên cứu dịch tễ học trên 14 quốc gia, trong đó khoảng 25.000 phụ nữ bị ung thư buồng trứng và hơn 80.000...