Các thầy cô luôn khát khao cống hiến sức lực, trí tuệ để trẻ vùng cao có chữ
Những chuyến công tác ở vùng cao biên giới Thanh Hóa, nhà báo Nguyễn Thế Lượng gặp nhiều thầy cô giáo từ miền xuôi lên cắm bản. Trong họ đều chung khát khao được cống hiến sức lực, trí tuệ để trẻ vùng cao có chữ.
Nhà báo Nguyễn Thế Lượng trên hành trình tác nghiệp.
Những mùa xuân xa nhà
Nhà báo Nguyễn Thế Lượng kể: Từ đỉnh Sài Khao, Pha Đén, Hua Pù, Con Dao, Suối Tút, Pù Đứa, Pù Quăn hay Tà Kóm của huyện biên giới Mường Lát… Rồi những bản người Mông xa xôi, hẻo lánh, như: Mùa Xuân, Xía Nọi, Ché Lầu ở huyện vùng biên Quan Sơn (Thanh Hóa), ở đâu tôi cũng bắt gặp những thầy, cô giáo cắm bản.
Có những thầy, cô giáo rời bỏ gia đình, rời bỏ cuộc sống nơi đô thị để tình nguyện đến với các em nhỏ ở vùng xa xôi, hẻo lánh. Cũng không ít thầy, cô giáo là người vùng biển đã tình nguyện lên vùng biên giới Việt – Lào để “gieo chữ” trên đại ngàn cho hàng vạn trẻ thơ từ những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước, giờ đây vẫn chưa thể “hồi hương”.
Thầy Hoàng Sỹ Xuân, ở xã Quảng Tâm, huyện Quảng Xương, (nay là TP Thanh Hóa), lên Mường Lát nhận công tác từ năm 1997. Giờ đây, thầy đang công tác tại Trường PTDT bán trú – THCS Mường Lý (cách nhà 230 km).
Nghe thầy Xuân kể chuyện, ngày lên Mường Lát nhận công tác, thầy không nghĩ mình có thể ở trên vùng khó khăn này lâu như vậy. Bởi lẽ, ngày ấy người ta bảo, mỗi giáo viên nam lên vùng khó khăn, xa xôi nhất của tỉnh cũng chỉ dăm năm thôi, còn giáo viên nữ chỉ đi “nghĩa vụ” vài ba năm rồi trở về. Thế nhưng, qua 24 năm, thầy Xuân vẫn chưa thể chuyển về xuôi.
“Nhiều lúc muốn xin về xuôi để được gần vợ con, có điều kiện chăm sóc mẹ già, nhưng không thể. Bây giờ, ý định xin chuyển về xuôi cũng không còn đau đáu như trước nữa. Bởi lẽ, kể cả về xuôi được cũng chẳng biết sẽ làm gì, ở đơn vị nào, vì cơ hội đến với mỗi người không được như mong muốn.
Mỗi khi nghĩ đến vấn đề này, những người công tác lâu năm như chúng tôi lại xác định bao nhiêu năm qua khó khăn, vất vả như vậy mình còn vượt qua. Đến bây giờ, cũng chỉ còn vài năm nữa là đến tuổi nghỉ hưu, nên tự động viên mình hãy cố gắng mà thôi” – thầy Xuân kể.
Còn thầy Nguyễn Văn Giang, quê ở tận vùng ven biên Nga Sơn, lên nhận công tác ở Mường Lát từ năm 1990. Hơn 30 năm công tác ở vùng khó, giờ đây thầy đã coi Mường Lát là quê hương thứ 2 của mình.
Thầy Giang bảo rằng: “Ngày chúng tôi lên đường nhận công tác, ai cũng tự hứa sẽ cố gắng hết mình để đem cái chữ cho lũ trẻ. Ai cũng hy vọng, sau khi hết thời gian “nghĩa vụ” được về vùng thuận lợi công tác. Thế nhưng, thực tế không như vậy. Sau nhiều lần viết đơn xin về xuôi, nhưng không nhận được hồi âm từ phía cơ quan chức năng, nên đã từ bỏ ý định”.
Quê thầy Giang ở huyện ven biển Nga Sơn, cách trung tâm Mường Lát hơn 300 km. “Ngày ấy, chúng tôi lên đây khổ sở và vất vả lắm. Có những chuyến về thăm gia đình, phải mất 2 ngày mới tới nhà. Đến lúc trở lại trường, có lần phải đi bộ cả ngày đường, vì xe khách không thể chạy được do mưa lũ. Không có sóng điện thoại, không liên lạc được với gia đình, nên mỗi khi về thăm nhà, bố mẹ, người thân lại khóc sướt mướt vì thương nhớ”, thầy Giang kể.
Video đang HOT
Còn cô Mai Thị Lâm, ở xã Nga Thạch, huyện ven biển Nga Sơn đã có thời gian công tác tại vùng biên giới Mường Lát gần 20 năm. Cô Lâm đã gửi trọn tuổi thanh xuân của mình cho núi rừng, để dìu dắt bao thế hệ học trò nơi đây. Nhiều lúc quá khó khăn, cô Lâm cũng đã có ý định buông bỏ.
Nhưng rồi, chứng kiến cảnh con em đồng bào ở đây có nhiều trẻ thất học, lòng yêu nghề của cô giáo Lâm đã thắng tất cả những nỗi tủi hờn, khó khăn, vất vả, gian truân… Trải qua bao năm, những giọt nước mắt của cô Lâm cứ thế thấm vào… đá núi. “Tôi chỉ mong người thân trong gia đình luôn mạnh khỏe và thông cảm để mình an tâm công tác. Những vất vả về tinh thần, vật chất mình quen rồi, gắn bó được ở đây vì yêu nghề thôi”, cô Lâm chia sẻ.
Khi được gặp những thầy, cô giáo đã không quản ngại khó khăn, gian truân, vất vả để đem trí thức đến cho các thế hệ học trò ở vùng xa xôi, hẻo lánh, để rồi gửi lại tuổi thanh xuân của mình với núi rừng ấy, nhà báo Nguyễn Thế Lượng đã thực sự xúc động.
Mà không chỉ xúc động, anh cũng còn khâm phục họ bởi, đức tính hy sinh cao cả, lòng tình thương đối với trẻ em vùng khó khăn và lòng yêu nghề. Nhiều người đã dành trọn cuộc đời của mình để cống hiến cho sự nghiệp Giáo dục vùng cao, xa xôi, khó khăn và hẻo lánh…
Và có lẽ, lý do trên và nhiều lý do khác nữa, nhóm tác giả đã quyết định chọn đề tài “Luân chuyển giáo viên: Đằng đẵng đợi ngày về”, để tham dự cuộc thi “Vì sự nghiệp giáo dục Việt Nam” năm 2021.
Nhà báo Nguyễn Thế Lượng (ngoài cùng bên phải) luôn gần gũi với bà con và người thầy vùng cao, biên giới.
“Sân chơi” để nhà báo gửi gắm thực tế, nỗi niềm nhà giáo
Nhà báo Nguyễn Thế Lượng chia sẻ: Khi loạt bài Luân chuyển giáo viên của chúng tôi được lọt vào vòng chung khảo của cuộc thi, đã được Ban giám khảo đánh giá là đề tài có chất lượng. Có thể nói, cuộc thi “Vì sự nghiệp Giáo dục Việt Nam” là “sân chơi” dành cho các phóng viên cả nước, đặc biệt là những phóng viên phụ trách mảng Giáo dục.
Được tham gia cuộc thi này, cũng là cơ hội để các những người làm báo như chúng tôi thể hiện tình yêu báo chí, có trách nhiệm với ngành Giáo dục nước nhà.
Điều vui đáng trân quý nhất là giải báo chí “Vì sự nghiệp Giáo dục Việt Nam” đã quy tụ được nhiều tác giả, các tác phẩm xuất sắc về lĩnh vực giáo dục. Các tác phẩm tham gia cuộc thi này đã truyền tải được những thông điệp vô cùng ý nghĩa trong lĩnh vực Giáo dục nước nhà. Qua đó vinh danh những cá nhân, tấm gương điển hình tiên tiến, tâm huyết đang tiếp tục cống hiến cho ngành Giáo dục Việt Nam.
Từ thực tế trong lĩnh vực Giáo dục hiện nay, chúng tôi mong muốn Nhà nước cần có giải pháp, chính sách ưu việt hơn dành cho giáo viên và ngành Giáo dục. Trong đó, cần quan tâm hơn nữa đến đời sống của những giáo viên vùng sâu, xa, biên giới, hải đảo.
Từ thực tế được chứng kiến, ghi nhận, nhà báo Nguyễn Thế Lượng trăn trở: Tôi thấy, ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay, nhiều địa phương như: Mường Lát, Quan Hóa, Quan Sơn, Bá Thước, Lang Chánh, Như Xuân, Thường Xuân… những huyện miền núi đang còn nhiều khó khăn. Tuy nhiên, cuộc sống của giáo viên ở những vùng khó khăn ấy vẫn chưa thực sự được quan tâm về chế độ ưu đãi phụ cấp.
Hàng vạn giáo viên ở huyện Quan Sơn, Quan Hóa, Bá Thước, Lang Chánh… bị ảnh hưởng do sự điều chỉnh chế độ phụ cấp bởi Quyết định 861/QĐ-TTg, ngày 4/6/2021, khiến cuộc sống của họ gặp nhiều khó khăn; hoặc, quy định về việc thăng hạng viên chức đối với giáo viên, đã ảnh hưởng đến tâm lý và đời sống của những người đang ngày đêm cống hiến cho sự nghiệp “trồng người” của nước nhà.
Có thể nói, loạt bài “Luân chuyển giáo viên” của nhóm tác giả đã mang lại nhiều thông tin, thực tế đáng chú ý để những Bộ, ban ngành, địa phương… hiểu thêm thực tế và có những quyết sách phù hợp cho đội ngũ giáo viên tại Thanh Hóa nói riêng và cả nước nói chung.
Mối tình nhà giáo dưới chân đèo Khau Phạ
Cùng tốt nghiệp sư phạm, thầy Hoàng Văn Thái và cô Đàm Thị Hoa là cặp vợ chồng hiếm hoi ở Yên Bái cùng được nhận quyết định luân chuyển công tác về thành phố.
Cô Hoa và thầy Thái (thứ 3 và thứ 4 từ trái qua) chụp hình lưu niệm cùng các em học sinh.
Họ đã có hơn 10 năm giảng dạy tại ngôi trường vùng khó - PTDTBT Tiểu học Nậm Khắt.
Điểm trường Lả Khắt đón "cặp đôi" tình nguyện
Cô Đàm Thị Hoa, người con gái Quảng Ninh nên duyên cùng thầy giáo Hoàng Văn Thái, quê Yên Bái sau khi cùng tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm Hà Tây (cũ). Cả hai sau đó viết đơn tình nguyện lên huyện Mù Cang Chải - một trong những địa bàn xa xôi, khó khăn bậc nhất của Yên Bái để công tác.
Năm 2010, hai người được phân công giảng dạy tại điểm trường Lả Khắt, thuộc Trường Tiểu học xã Nậm Khắt (nay là Trường Phổ thông Dân tộc Bán trú Tiểu học Nậm Khắt).
Nhớ lại thời điểm đặt chân lên điểm trường vùng cao Tây Bắc, cô Hoa tâm sự: "Ngày đầu tiên đến trường vào thời điểm năm học mới, chúng tôi phải vượt quãng đường chừng 8km từ trung tâm đến điểm trường lẻ. Lúc đó đang là mùa mưa, chiếc xe máy ì ạch bò trên con đường sình lầy chỉ vừa một bánh. Giữa đường ngã xe, cặp xách, quần áo dính đầy bùn đất".
Thầy Thái tiếp lời: "Có đoạn đường cua tay áo, dốc và trơn trượt khiến chúng tôi ngã nhào. Ngay lúc ấy, tôi thoáng nghĩ và bảo vợ: "Em ơi hay mình đi về", thì vợ đáp: "Mình cứ đi tiếp đến trường xem thế nào". Vậy là cả hai tiếp tục vượt bùn, đẩy xe đi. Khi cách điểm trường Lả Khắt chừng một cây số thì xuất hiện đường trải nhựa. Chúng tôi reo lên mừng rỡ, cảm giác quên hết mệt mỏi đã qua và có niềm tin hơn với cuộc sống phía trước".
Lả Khắt khi ấy chưa có điện lưới quốc gia, nằm chênh vênh dưới chân đồi. Mỗi khi chiều về, rừng thông gió rít từng cơn khiến người con mới xa quê càng buồn heo hắt. "Điện không có, đèn hoa kỳ cũng không, tối đến hai vợ chồng dùng nến thắp sáng để sinh hoạt, soạn bài cho các em" - cô Hoa nhớ lại.
Nói về học sinh ngày ấy, cô Hoa cho biết: "Học sinh đều là con em người Mông. Ngày đầu mới giảng bài, các em rất nhút nhát, mỗi giờ ra chơi thường nhìn cô với ánh mắt tò mò và ngại ngùng không dám lại gần. Mỗi dịp kỷ niệm như 8/3, 20/11 hầu hết chẳng em nào biết đến. Một số em lớn hơn thì biết "ngày của cô giáo", thế là đi hái bông cải ở vườn nhà mang đến tặng cô. Nhìn các em vừa đi, vừa hân hoan mà tôi cũng vui lây".
Hết năm học đầu tiên thầy Thái mua được máy điện nước (máy tạo ra dòng điện bằng sức nước) từ các kỹ sư xây dựng công trình để lại. Chiếc máy tạo ra sức điện vừa đủ để thắp sáng 1 bóng đèn. Thế nhưng, những khi "mất điện" cả hai vợ chồng bất kể đêm muộn vẫn mò mẫm mang đèn pin men theo con suối để lên đầu nguồn sửa.
Sử dụng máy điện nước chừng 1 năm thì điện lưới quốc gia được kéo về bản Cáng Dông, cách bản Lả Khắt 3km. "Khi ấy, vợ chồng tôi cùng gom tiền lương mua đường dây dẫn điện về bản. Tôi vận động thanh niên ở bản dựng cột gỗ, cố định đường dây, nối công tơ để đồng bào sử dụng. Ngày đó, vợ chồng tôi có chiếc tivi màu, khác với tivi đen trắng của bà con nên trường học luôn là nơi bà con tụ họp đông đủ nhất. Bí thư xã khi ấy còn thốt lên là từ bé đến giờ mới thấy" - thầy Thái phấn khởi nói.
Cô Hoa tươi tắn bên thầy Thái trong trang phục người Mông.
"Rẽ mây, xé núi" về với vợ con
Năm 2011, vợ chồng thầy Thái, cô Hoa đón đứa con đầu lòng. Cứ mỗi chiều thứ 6, sau khi dạy xong, thầy Thái đi xe máy vượt 168 km về huyện Trấn Yên thăm vợ con. "Đường về nhà phải đi qua đèo Khau Phạ, một trong tứ đại đỉnh đèo của Tây Bắc. Ngày đó, tôi phải vừa đi, vừa canh "ổ voi", "ổ gà", mò mẫm trong màn sương mù dày đặc bao trùm xung quanh. Về đến nhà cũng là lúc nửa đêm" - thầy Thái kể.
Sau thời gian nghỉ sinh, cô Hoa để con ở nhà, gửi ông bà. Còn mình thì trở lại trường để dạy học. Để có thời gian gần con, mỗi cuối tuần cả hai vợ chồng khăn gói "vượt đèo" thăm nhà và chăm sóc con nhỏ. "Đến năm con tròn 4 tuổi, nhớ quá, chúng tôi quyết định đón lên ở cùng bố mẹ và học cùng các bạn" - thầy Thái cho hay.
Thời tiết vùng cao khắc nghiệt, khiến đôi lúc con bị ốm đau. Bệnh viện ở xa, vợ chồng cô Hoa chỉ biết đưa con đi trạm y tế xin thuốc chữa bệnh. "Lúc đó dù được cho thuốc nhưng chúng tôi cũng xác định con khỏi được thì khỏi, mà nếu lâu khỏi cũng không biết làm thế nào. Trộm vía cháu có thể trạng tốt và ít ốm vặt" - cô Hoa tâm sự.
Cô Hoa bộc bạch, có thời điểm hai vợ chồng vừa chăm con ốm đau, vừa dạy học và học nâng chuẩn kiến thức nghiệp vụ. Những lúc quá áp lực họ đã từng có suy nghĩ "hay thôi bỏ". Nhưng rồi lại động viên nhau "người khác làm được thì mình cũng làm được". Vậy là cả hai cùng cố gắng, cùng san sẻ những khó khăn thiếu thốn.
Sau khi công tác tại điểm trường Lả Khắt được 2 năm thì thầy Thái, cô Hoa chuyển về Trường Tiểu học Nậm Khắt. Cùng với sự giúp đỡ và san sẻ của đồng nghiệp, họ cùng đi qua hơn 10 năm ở vùng khó. Tình cảm của đồng bào người Mông theo năm tháng càng thêm sâu sắc.
Cô Hoa tâm sự: "Tôi nhớ mãi hình ảnh cụ bà người Mông chừng 70 tuổi sống ở gần điểm trường. Hàng ngày mỗi khi lên lớp, bà cụ đều đứng ngó vào trong ngụ ý muốn gặp cô giáo. Có lần, cụ lấy một củ khoai cất kỹ trong vạt áo đặt vào tay tôi và nói: "Cho cô giáo". Nhiều lần sau đó, cụ bà đến và vẫn là củ khoai, củ sắn đã nướng chín. Sau này, khi khó khăn, tôi thường nhớ về bà cụ và hình ảnh đó. Đấy là những món quà gần gũi, thân thương".
Với sự gắn bó và kiên trì trong công tác giảng dạy, hai thầy cô được ngành Giáo dục tỉnh Yên Bái xét luân chuyển công tác về thành phố. Thầy giáo Vũ Xuân Thái công tác tại Trường TH&THCS Hợp Minh, phường Hợp Minh. Cô giáo Đàm Thị Hoa công tác tại Trường TH&THCS Âu Lâu, xã Âu Lâu.
"Niềm vui như vỡ òa khi tôi nhận được tin luân chuyển nơi công tác. Chương trình nhân văn sẽ khích lệ cho các đồng nghiệp trẻ đam mê nghề giáo có niềm tin, chỉ cần cống hiến hết mình sẽ nhận được thành quả xứng đáng", thầy Thái cho biết.
Nhận công tác mới, cũng là thời điểm cô Hoa đón cháu thứ hai được một tháng tuổi. "Thật sự với chúng tôi đó là niềm vui được gần bố mẹ, gia đình và có điều kiện tốt hơn cho các con học tập và sinh hoạt. Tuy nhiên, tôi sẽ rất nhớ học sinh vùng cao và tấm lòng của đồng bào. Tôi hi vọng điểm trường nơi tôi từng gắn bó sẽ tiếp tục được đầu tư, để các em có điều kiện học tốt nhất. Sau này sẽ trở thành những công dân có ích đóng góp cho quê hương" - cô Hoa bộc bạch.
Phấn đấu 90% nữ nhà giáo đạt danh hiệu "Giỏi việc trường - Đảm việc nhà" Công đoàn giáo dục Việt Nam yêu cầu đẩy mạnh phong trào thi đua "Giỏi việc trường - Đảm việc nhà", phấn đấu tỉ lệ nữ cán bộ, nhà giáo đạt danh hiệu từ 90% trở lên. Ảnh minh họa Công đoàn Giáo dục Việt Nam vừa ban hành văn bản hướng dẫn tiếp tục triển khai phong trào thi đua "Giỏi việc...