Các di chỉ trong hang động – thời đại đá mới ở Tuyên Quang (Tiếp theo)
Nhóm công cụ mảnh có 92 chiếc, chiếm 5,92% tổng số hiện vật. Đây là nhóm hiện vật được gia công từ những mảnh cuội bổ có kích cỡ vừa phải và hình dạng hình học.
Công cụ đồ đá mới, tìm thấy năm 1956 ở xã An Khang (TP Tuyên Quang) có niên đại khoảng 6.000 năm.
Người xưa đã bổ tách đôi hòn cuội, phần lớn những mảnh này có điểm ghè tách ở rìa dọc của viên cuội. Nhóm này có các loại công cụ hình đĩa, công cụ hình bầu dục, hình bán nguyệt, hình thang. Ngoài một số công cụ hình bầu dục hay oval kích thước khá lớn có thể sử dụng với chức năng chặt; còn phần lớn đều nhỏ, mỏng dùng để cắt nạo. Công cụ mảnh cuội cũng là một trong những đặc trưng của di chỉ này, vì nhóm này phân bố đồng đều ở cả lớp văn hóa sớm và muộn của di chỉ.
Nhóm công cụ không qua chế tác chiếm 6,38%. Loại hình công cụ của nhóm này gồm: hòn ghè, chày nghiền, bàn nghiền, bàn mài. Những hòn ghè đập thường dùng đá quartz. Chày nghiền khá nhiều với các hình dạng khác nhau, còn bàn nghiền thì rất hiếm. Bàn mài ở Phia Vài thường làm bằng các mảnh sa thạch dạng phiến, có thể khai thác ngay trong các mạch đá nằm xen kẽ với đá vôi. Ở đây, bàn mài thường phẳng, vết mài sơ qua, nhiều khi lẫn với mặt nhẵn tự nhiên của đá phiến. Nhóm này phân bố chủ yếu ở lớp văn hóa muộn của di chỉ.
Nhóm mảnh đá có vết ghè và mảnh tước có 1.022 di vật, chiếm 65,81% tổng số hiện vật. Trong số đó, mảnh tước đầu tiên có 130 tiêu bản, mảnh tước thế thứ có 473 tiêu bản. Nhóm này phân bố đồng đều ở cả lớp văn hóa sớm và muộn của di chỉ. Mảnh đá có vết ghè ở Phia Vài chủ yếu là những mảnh cuội có vết gia công nhưng chưa tạo thành rìa lưỡi hoặc những phế vật loại bỏ của quá trình chế tác. Số lượng mảnh đá có vết ghè ở Phia Vài khá nhiều, điều đó chứng tỏ việc chế tác công cụ đá ở đây diễn ra thường xuyên; sự lãng phí nguyên liệu cũng lớn, có lẽ do sẵn nguồn nguyên liệu tại chỗ. Mảnh tước ở Phia Vài không nhiều so với tỷ lệ công cụ; kích thước mảnh tước thường hơi lớn và vừa, hiếm mảnh tước nhỏ. Điều này càng góp phần khẳng định kỹ thuật ghè đẽo công cụ ở Phia Vài khá đơn giản, bởi chỉ vài nhát ghè là có thể thành một công cụ; việc tu chỉnh hình dáng và rìa lưỡi cũng ít được chú ý.
Trong số di vật đá ở Phia Vài, những vật dùng vào việc trang trí hay nghi lễ như thổ hoàng khá phổ biến. Ngoài ra, còn có một viên cuội phiến sét đục lỗ dùng để đeo làm đồ trang sức hoặc nhu cầu tín ngưỡng nào đó.
Kỹ thuật chủ đạo trong chế tác công cụ của người Phia Vài là ghè đẽo trực tiếp. Kỹ thuật tu chỉnh ít phổ biến và thiếu hẳn kỹ thuật tách mảnh tước từ hạch đá.
Video đang HOT
Kỹ thuật ghè đẽo đặc trưng khác ở Phia Vài là ghè xung quanh, hướng tâm viên cuội (kỹ thuật Sumatralith). Thủ pháp này đã tạo nên những loại hình công cụ Sumatralith với các dạng hình bầu dục, hình đĩa, rìu ngắn,… ở sưu tập Phia Vài, kỹ thuật Sumatralith kết hợp chặt chẽ với kỹ thuật bổ cuội, và chúng tỷ lệ thuận với nhau trong loại hình rìu ngắn.
Kỹ thuật chặt bẻ là một thủ pháp hữu hiệu nhằm tạo ra loại hình công cụ lao động. Chặt bẻ là bước kỹ thuật thứ hai tiếp theo sau khi đã tạo ra được các công cụ có rìa lưỡi, rìa dọc, công cụ 1/4 cuội, công cụ hình bầu dục tạo công cụ rìu ngắn.
Một kỹ thuật khác khá phổ biến ở Phia Vài là kỹ thuật ghè đẽo hạn chế ở rìa cạnh của cuội, trên một mặt, theo một hướng. Với kỹ thuật này, đã tạo ra những công cụ chặt thô hoặc mũi nhọn thô. Đây là kỹ thuật khá cổ, rất phổ biến từ thời đại Đá cũ và là kỹ thuật đặc trưng trong văn hóa Sơn Vi – một văn hóa hậu kỳ Đá cũ ở nước ta. Rất hiếm chế phẩm được ghè lưỡi từ hai mặt.
Phia Vài là di chỉ – xưởng – mộ táng, vết tích cư trú thể hiện rất rõ qua tầng văn hóa chứa công cụ lao động, than tro, bếp. Bước đầu đã xác định đây là nơi cư trú khá liên tục của cư dân thời Tiền sử trải qua vài ngàn năm, nhưng số lượng dân cư không lớn lắm.
Vết tích chế tác công cụ lao động tại nơi cư trú khá rõ, thể hiện qua số lượng khá lớn mảnh tước nhỏ tách ra từ việc đẽo lại rìa lưỡi công cụ; một số hòn ghè đập, bàn mài… Song rõ ràng đây không phải là công xưởng thật sự chuyên chế tác đá. Phia Vài cũng như nhiều di tích văn hóa hang động khác là nơi tái chế công cụ lao động nên ý nghĩa xưởng là ở đó.
Vết tích mộ táng thể hiện rõ ở sự hiện diện của ngôi mộ chứa di cốt bán hóa thạch người cổ Homosapiens. Người xưa đã đặt mộ ngay nơi cư trú với nghi thức mai táng rất độc đáo và cổ sơ.
Cư dân cổ Phia Vài sống trong hang động và khai thác nguồn thức ăn từ động thực vật; chế tác công cụ lao động và tín ngưỡng về cơ bản giống với cư dân hệ thống văn hóa Hòa Bình. Những công cụ hình bầu dục, hình đĩa, oval, hình chữ U dạng rìu ngắn mặc dù không đậm đặc nhưng hoàn toàn mang dáng dấp truyền thống của loại hình và kỹ thuật Hòa Bình. Hơn nữa, những di vật như chày nghiền, đá có lỗ vũm, thổ hoàng ở Phia Vài cũng luôn hiện diện trong các di tích Hòa Bình. Do đó, có thể kết luận: Phia Vài là một di chỉ thuộc hệ thống văn hóa Hòa Bình.
Tuy vậy, Phia Vài cũng có những điểm đặc thù. Ở đây, phần lớn là công cụ ghè đẽo thô sơ dạng chopper khá giống với đồ đá của giai đoạn hậu kỳ Đá cũ – loại hình và kỹ thuật Sơn Vi. Sự tương đồng trên có lẽ mang tính chất truyền thống. Vấn đề được lý giải ở đây chính là sự thích ứng kỹ thuật với môi trường sống. Trong điều kiện hệ sinh thái đa dạng, nguồn thức ăn phong phú cư dân cổ Phia Vài có nhiều thuận lợi trong hoạt động hái lượm, săn bắt, có nhiều hoạt động không cần đến công cụ. Nhu cầu cách tân kỹ thuật không bức xúc nên những loại công cụ truyền thống vẫn được duy trì khá lâu dài. Điều đó có lẽ cũng phù hợp với việc rất hạn chế sử dụng công cụ mài ở đây.
Theo dấu chân người Việt cổ
Xứ Thanh - 'nơi căn bản của nước Nam', ghi dấu ấn sâu đậm 'địa điểm nhiều kỷ niệm về quá khứ giàu truyền thống và vĩ đại'.
Đó không phải lời tán thưởng xuông mà là thực tế lịch sử. Ngược dòng quá khứ, lần theo bước chân người Việt cổ, qua những nền văn hóa - văn minh từ sơ kỳ thời đại đồ đá cũ qua thời đại đá mới, đồng thau tiến đến văn minh Đông Sơn rực rỡ để hiểu biết sâu sắc hơn tiến trình lịch sử cũng như vai trò, vị trí của xứ Thanh trên tiến trình vĩ đại ấy.
Tượng đá Đa Bút trong quần thể di tích lịch sử văn hóa Đa Bút, thuộc thôn Đa Bút, xã Minh Tân, Vĩnh Lộc (nơi lần đầu phát hiện di chỉ Đa Bút).
Các dấu vết của người nguyên thủy - người vượn sớm nhất được phát hiện ở núi Đọ, tỉnh Thanh Hóa vào năm 1960. Văn hóa núi Đọ bao gồm một hệ thống các di tích sơ kỳ thời đại đồ đá cũ như: núi Đọ, núi Nuông, núi Quan Yên, núi Nổ... Trên những ngọn núi này, người vượn nguyên thủy đã biết ghè vỡ đá núi để chế tác công cụ, làm thành các mảnh tước, hạch đá, rìu tay... Tuy kỹ thuật còn thô sơ, vụng về nhưng đã phần nào phản ánh được bước phát triển vượt bậc của "người nguyên thủy tối cổ trên miền đất xứ Thanh từ người vượn - vượn người đứng thẳng lên bằng hai chân và bắt đầu làm ra công cụ kỹ thuật rìu đá đầu tiên từ những mảnh bazan để lao động sản xuất" (Tinh hoa văn hóa xứ Thanh, Nxb Thanh Hóa).
Từ "buổi bình minh" ấy, người Việt cổ tiếp tục tiến bước qua hậu kỳ đồ đá cũ với nền văn hóa Sơn Vi tiêu biểu. Những di tích như: Mái Đá Điều (Bá Thước), hang Con Moong (Thạch Thành) là minh chứng sinh động, khẳng định dấu ấn của những "chủ nhân" văn hóa Sơn Vi khắp vùng núi phía Tây và Tây Bắc của tỉnh Thanh Hóa. "Những thành tựu nghiên cứu liên ngành khảo cổ học, nhân chủng học, cổ sinh vật học, dân tộc học... cho thấy rằng chủ nhân văn hóa Sơn Vi ở Thanh Hóa đã là những người Homo Sapiens - Người hiện đại hay Người khôn ngoan. Đó là những người có trán cao, mặt thẳng, cằm nhỏ, lưng không gù, cổ không cúi về phía trước, dáng đi hoàn toàn đứng thẳng, gần giống người hiện đại ngày nay".
Là một trong số rất hiếm di chỉ khảo cổ học có địa tầng dày và được bảo tồn tốt nhất hiện nay ở Việt Nam và cả Đông Nam Á, hang Con Moong được ví như "bảo tàng về diễn tiến của các nền văn hóa thời đại đá". Hang có hình tang trống, hai cửa thông nhau, chiều dài 40m, chỗ rộng nhất lòng hang đạt 9m. Hang chứa đựng 3 tầng văn hóa khác nhau với những hiện vật tiêu biểu đại diện cho 3 nền văn hóa ấy: lớp dưới cùng là những di vật tiêu biểu cho văn hóa Sơn Vi thuộc thời đại đá cũ; lớp giữa là những di vật mang đặc trưng văn hóa Hòa Bình và lớp trên cùng là di vật tiêu biểu cho văn hóa Bắc Sơn thuộc thời đại đá mới. Từ 3 nền văn hóa ấy đã cho thấy bước chuyển nghìn năm của con người trên vùng đất này từ thời đại đá cũ (văn hóa Sơn Vi) qua văn hóa Hòa Bình sang thời đại đá mới (văn hóa Bắc Sơn). "Đây là một trong những di tích quan trọng nhất không chỉ đối với Thanh Hóa mà còn đối với cả nước, để các nhà khoa học nghiên cứu quá trình diễn biến liên tục của các nền văn hóa thuộc thời đại đồ đá" (Địa chí Thanh Hóa, tập I).
Dịch chuyển qua thời gian, văn hóa Đa Bút hình thành cùng với quá trình chiếm lĩnh đồng bằng của người Việt cổ. Đây là nền văn hóa thuộc sơ kỳ thời đại đồ đá mới, có niên đại sau các nền văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn, cách đây từ 5 - 6 nghìn năm. "Văn hóa Đa Bút có nguồn gốc từ văn hóa Hòa Bình, trải qua nhiều nghìn năm tồn tại và phát triển, là cơ tầng vững chắc cho việc hình thành các văn hóa Tiền Đông Sơn ở vùng đệm giữa châu thổ sông Hồng và châu thổ sông Mã, một mảng màu đặc sắc trong tiền sử Việt Nam" (Văn hóa Đa Bút - Những giá trị cần bảo tồn và phát huy, Nguyễn Xuân Ngọc).
Tên gọi của nền văn hóa này được lấy theo tên thôn Đa Bút (xã Vĩnh Tân cũ, nay là xã Minh Tân, Vĩnh Lộc), phát hiện ra lần đầu tiên năm 1926, sau đó di chỉ này được tiến hành khai quật. Những hiện vật phát hiện đầu tiên như: rìu đá, cuốc đá, bàn nghiền, chày nghiến, đồ gốm đã cho biết di tích này cho thấy đây là dạng di tích Cồn vỏ nhuyễn thể - Cồn hến: có niên đại đá mới, phản ánh quá trình chiếm lĩnh đồng bằng, chinh phục thiên nhiên, tạo nên một cuộc cách mạng thực sự trong cư dân nguyên thủy thời đại đá mới với việc phát triển nông nghiệp trồng lúa nước.
Ngoài di chỉ Đa Bút (xã Minh Tân), tại Thanh Hóa, văn hóa Đa Bút lưu dấu ấn đậm nét trong hệ thống các di chỉ: bản Thủy (xã Vĩnh Thịnh), làng Còng (Vĩnh Hưng) thuộc huyện Vĩnh Lộc; Cổ Cồn Ngựa (xã Hà Lĩnh, Hà Trung) và Gò Trũng (xã Phú Lộc, Hậu Lộc)...
Những hiện vật còn lưu giữ được tại Di chỉ Cổ Cồn Ngựa (xã Hà Lĩnh, Hà Trung) cho thấy dấu vết của con người thời đại đá mới thuộc nền văn hóa Đa Bút cách ngày nay hơn 6 nghìn năm trước. Di chỉ rộng khoảng 2.000m2, được khai quật năm 1979 - 1980. Di chỉ nằm trong khu vực dải đất cao giữa thung lũng rộng được bao bọc bởi núi đá vôi và đồi đất, ngày nay thung lũng ấy được người dân gọi là cánh đồng Bọc. Đây vừa là nơi cư trú, vừa là nơi mai táng người chết, có tầng văn hóa dày gần 1m. Các nhà khảo cổ đã phát hiện được số lượng di cốt nhiều nhất trong thời đại đá mới ở Việt Nam tại di chỉ Cổ Cồn Ngựa này.
Cùng với đó, các nhà khảo cổ học đã thu được một số lượng mảnh gốm rất lớn. Đồ gốm ở di chỉ Cổ Cồn Ngựa giống với đồ gốm ở khu vực Đa Bút, là các loại có đáy tròn, miệng thẳng hoặc hơi loe, mép miệng bằng xương gốm thô pha nhiều sạn sỏi và không có dấu vết trang trí nào ngoài những rãnh chìm... Ngoài ra, ở di tích Cổ Cồn Ngựa cũng tìm thấy nhiều công cụ bằng đá, nhiều công cụ được ghè đẽo.
Các hiện vật khai quật được ở nơi đây đã khẳng định con đường tiến xuống chiếm lĩnh đồng bằng Thanh Hóa của cư dân Đa Bút. Mặt khác, những biểu hiện khác biệt về hoạt động kinh tế mà trong đó nông nghiệp trồng lúa xuất hiện được coi là một bước chuyển biến lớn lao của đời sống, mà các nhà khảo cổ học thường gọi đây là "một cuộc cách mạng đá mới" thực sự.
Đến nay, dẫu đã trải qua hơn 9 thập kỷ, những di tích, hiện vật thuộc nền văn hóa Đa Bút tiếp tục nhận được nhiều sự quan tâm, nghiên cứu. Tháng 11-2022, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 2655/QĐ-BVHTTDL cho phép Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thanh Hóa phối hợp với Viện Khảo cổ học thăm dò khảo cổ tại địa điểm Đa Bút thuộc thôn Đa Bút, xã Minh Tân, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, kéo dài gần 1 tháng, trên diện tích 4m2.
Xuyên suốt tiến trình lịch sử, từ sơ kỳ thời đại đồ đá cũ qua thời đại đá mới, đồng thau tiến đến văn minh Đông Sơn rực rỡ, Thanh Hóa vẫn luôn ghi đậm dấu ấn với những di tích, di chỉ, hiện vật tiêu biểu. Đó không chỉ là tư liệu lịch sử, khảo cổ học, văn hóa học... sinh động, hấp dẫn mà còn là "điểm tựa" vững chắc, nguồn động lực, "sức mạnh nội sinh" quý giá để các thế hệ người xứ Thanh không ngừng nỗ lực, phấn đấu mở "cánh cửa" tương lai...
Phát hiện hơn 900 hiện vật khảo cổ tại hang Ngườm Sâu, Lạng Sơn Giám đốc Bảo tàng tỉnh Lạng Sơn Nông Đức Kiên cho biết, Bảo tàng tỉnh vừa phối hợp với Viện Khảo cổ học (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) tiến hành khai quật di chỉ khảo cổ tại hang Ngườm Sâu (thôn Làng Giang, xã Gia Lộc, huyện Chi Lăng), phát hiện trên 900 hiện vật khảo cổ học giá...