Ca khúc ‘Be My Baby’ của The Ronettes: Bi kịch tình yêu của một kiệt tác
Khi Brian Wilson của The Beach Boys lần đầu nghe thấy Be My Baby trên radio trong xe hơi, anh đã bị đánh gục bởi sự rực rỡ của nó tới mức lao xe vào lề đường.
Còn John Lennon, trong một đêm ở Paris, đã xin giọng ca chính Ronnie Spector của The Ronettes hát một chút Be My Baby vào tai mình và sau đó, theo lời nữ ca sĩ, “suýt ngất đi”.
Còn nhiều những câu chuyện kiểu vậy, như tay trống Hal Blaine vô tình bỏ lỡ một nhịp và tạo ra khoảnh khắc 3 giây dễ nhận ra bậc nhất trong âm nhạc, nhưng phía sau Be My Baby còn nhiều thứ rất đời: Một tình yêu tàn bạo và khát khao giải phóng.
Giải phóng trong kìm kẹp
The Ronettes gồm 2 chị em Veronica (sau này nổi tiếng là Ronnie Spector) và Estelle Bennet cùng người em họ Nedra Talley. Họ bắt đầu như một thú vui nhỏ của một đại gia đình, nơi vào mỗi tối thứ Bảy, con cháu sẽ quây quần về nhà mình, và tất nhiên là không thiếu những tiết mục ca hát. Niềm đam mê với âm nhạc cũng lớn dần lên từ đó và cuối cùng, trở thành The Ronettes.
Vào thời điểm năm 1963, The Ronettes đã ra mắt một số đĩa đơn, có lịch diễn ổn định tại một số chương trình, tuy nhiên, họ đều chán nản vì không thật sự có gì đột phá. Đến lúc này, Estelle liền gọi điện cho nhà sản xuất Phil Spector để xin tới thử giọng.
The Ronettes vụt sáng nhờ “Be My Baby” do Phil Spector sáng tác và sản xuất
Tại buổi thử giọng, Spector đang ngồi bên dương cầm và khi nhóm bắt đầu hát Why Do Fools Fall in Love, ông đột ngột bật dậy và hét lên: “Chính là nó! Chính là nó! Đây chính là chất giọng mà tôi đang tìm kiếm”. Lập tức, Spector ký hợp đồng với The Ronettes, nhưng thực chất chỉ muốn có riêng Ronnie, người mà ông mê mẩn. Cũng ngay sau đó, họ ghi âm một số ca khúc nhưng Spector từ chối phát hành, hoặc khi phát hành, lại để dưới tên nhóm The Crystals. Be My Baby là đĩa đơn thật sự đầu tiên của nhóm do Spector sản xuất, được viết bởi chính Spector cùng bộ đôi Ellie Greenwich và Jeff Bary, lấy cảm hứng từ chính mối tình lãng mạn chớm nở giữa Ronnie và Spector.
“Ông ấy say mê giọng hát của tôi, cơ thể của tôi, mọi thứ” – Ronnie nói trong phỏng vấn năm 2015.Vậy là, vẫn năm 1963, ở tuổi 19, Ronnie một mình bay tới Los Angeles, không có 2 chị em, để thu âm Be My Baby tại phòng thu Gold Star.
Spector khi đó đã đình đám bậc nhất làng nhạc và có tiếng là vô cùng khắt khe. Phòng thu mà Ronnie bước vào chật cứng các nhạc sĩ và tất nhiên không thể thiếu Spector. Họ kiểm soát mọi thứ, yêu cầu Ronnie phải dừng ở đâu, bắt đầu ở đâu, cũng như kiểm soát cách âm nhạc, tiết tấu và độ sâu âm thanh tương thích. Nhưng cấu trúc và chất lượng giọng, cách cơ thể và hơi thở của cô bung ra thành tiếng hát, thì không ai kiểm soát được ngoài cô.
Ronnie phải luyện hát Be My Baby trong 3 ngày liên tiếp. Cô là viên gạch cuối cùng trong “bức tường âm thanh” mà Spector đã dày công xây dựng. Và Ronnie lại quyết định thực hiện luyện thanh hoàn toàn ở một nơi mà bàn tay của Spector không thể vươn tới: Nhà tắm nữ. Chính tại đó, có lẽ là khi Ronnie đứng trước gương, bới lại tóc cho cao hơn chút, chuốt thêm một lớp mascara… những âm thanh bất hủ “whoa-oh” và “oh-oh-oh-oh” của Be My Baby đã ra đời.
“Mọi người thường nói về âm vang tuyệt vời trong các phòng thu của Gold Star, nhưng họ chưa bao giờ nghe nó trong phòng tắm nữ” – cô viết trong hồi ký năm 1990 Be My Baby: How I Survived Mascara, Miniskirts and Madness.
Dù vậy, Spector, tay chơi khét tiếng làng nhạc, khăng khăng thu đi thu lại tới 42 lần mới thấy thỏa mãn với kết quả. Ca sĩ hát nền cho ca khúc có Darlene Love, Sonny Bono và cô bạn gái mới tuổi teen khi đó còn chưa có tên tuổi gì là Cher. Đĩa đơn phát hành 1 tháng sau đó, vào tháng 8/1963, được giới thiệu là “bản thu tiếp theo của thế kỷ”. Nó đứng thứ 2 tại Mỹ và thứ 4 tại Anh. The Ronettes kiếm được chuyến lưu diễn tới Anh, nơi nhóm nhạc đang lên khi đó The Rolling Stones hát hỗ trợ họ, và trở thành bạn bè với The Beatles (Estelle còn hẹn hò một thời gian với George Harrison).
“Be My Baby” cũng là khởi đầu cho bi kịch tình yêu của Ronnie Spector
Nhà tù tình yêu
Giống như tất cả các bản nhạc pop đỉnh cao nhất, Be My Baby rất đơn giản, nhưng chỉ ở trên bề mặt. “Đó là bản thu rất khó, nhưng nó có mặt mềm mại của mình, y như The Ronettes” – Spector kể lại trong hồi ký. Nó có nhiều lớp, không chỉ về âm nhạc (nhờ Spector cải biên đã có cả dàn nhạc và dàn hợp xướng làm nền cho giọng của Ronnie) mà còn về mặt cảm xúc.
Bên cạnh mỗi dòng ghi lại cảm giác phấn khích của một cô gái mới yêu (“Vào đêm ta gặp nhau, em biết em cần anh biết bao”) luôn có một dòng khác ẩn giấu sự ngột ngạt của tình yêu (“Và nếu em có cơ hội, em sẽ không bao giờ để anh đi”). Một lời van vỉ xin ai đó hãy yêu mình tột cùng đến phát điên. “Em sẽ làm anh tự hào về em” – Ronnie cầu xin, không hề biết rằng dù cô vừa có thắng lợi khi giành được không gian độc lập trong âm nhạc nhưng lại lao vào cái bẫy đời mà Spector đã giăng ra, tóm gọn cô.
Khi danh tiếng của nhóm ngày một tăng lên nhờ Be My Baby thì cơn ghen của Spector cũng bùng phát theo. Đúng như cô gái trong ca khúc, Ronnie đã có được tình yêu hết mực từ nhà sản xuất và cũng đúng như ca khúc, tình yêu này đòi hỏi rất nhiều.
Khi The Beatles nhờ The Ronettes hát hỗ trợ họ trong chuyến lưu diễn ở Mỹ năm 1966, Spector không cho Ronnie đi mà gửi một họ hàng của cô thế chỗ. Vào thời điểm Spector và Ronnie kết hôn năm 1968, The Ronetts tan rã và sự nghiệp ca hát của Ronnie cũng coi như đi tong.
Trong 6 năm tiếp theo, cô là tù nhân trong biệt thự ở Beverly Hills của họ. Trong hồi ký, Ronnie kể rằng chồng cô thậm chí làm một phiên bản bơm hơi của mình, đặt lên xe hơi của cô để có cảm giác ông luôn canh chừng bên cô. Được sự động viên của mẹ, Ronnie cuối cũng cũng tháo chạy khỏi cuộc hôn nhân vào năm 1974. Nhưng còn lâu Ronnie mới thoát khỏi Spector. Vài thập kỷ sau đó, chồng cũ vẫn tìm cách phá hoại sự nghiệp của cô, thậm chí viết thư cho Đại sảnh Danh vọng Rock ‘n’ Roll để ngăn không cho họ giới thiệu The Ronettes. Yêu cầu bị từ chối vì các cô gái “có thể hát theo cách của mình ngay cả qua một bức tường âm thanh”.
Năm 2008, Spector bị kết tội giết nữ diễn viên Lana Clarkson, đi tù 19 năm. Nhưng kể cả khi ngồi sau song sắt, Spector cũng không cấp phép cho Ronnie hát những hit lớn nhất của cô. Nhưng một lần nữa, Ronnie vẫn tìm được cách “lách luật” để có thể hát Be My Baby , dù không hoàn chỉnh.
Spector là một bạo chúa, nhưng không ai có thể phủ nhận, ông ta đã làm nên những điều vĩ đại. Chỉ với 2 phút rưỡi, Be My Baby đã tiệm cận với cái có thể coi là hoàn hảo trong pop. Hơn nửa thế kỷ sau khi suýt gặp tai nạn vì lần đầu nghe nó trên xe, Brian Wilsoncủa The Beach Boysvẫn nghĩ như vậy. “Nó là bản thu vĩ đại nhất từng được sản xuất” -Wilson trả lời phỏng vấn vào năm 2013. Và tất nhiên, một bộ phim tội phạm giật gân.
“Be My Baby”, một ca khúc tưởng chừng đơn giản nhưng là kiệt tác thu âm của thời đại:
Tiên phong rock ‘n’ roll
Âm nhạc được giao cho The Ronettes là pop nhưng các cô gái thì thuần túy là rock ‘n’ roll. Tiêu chuẩn của một nhóm nhạc nữ thời đó là phải ngây thơ một cách nghiêm nghị. Nhưng The Ronettes thì giống như thể một đêm thứ Bảy, đang lao về phía những rắc rối. Khi biểu diễn Be My Baby trên chương trình American Bandstand , các cô gái diện váy bút chì giống y nhau và tất nhiên, vũ điệu lắc lư hông cùng vung tay cũng đồng điệu đúng theo kịch bản. Nhưng khi máy quay quay cận, khán giả có thể thấy Ronnie đang chỉnh sửa bài hát bằng biểu cảm của mình: Khi hát “tự hào về em”, cô đã kèm theo đó một cái bĩu môi dài.
Không những thế, từ thời đầu sự nghiệp, The Ronettes đã làm rõ cá tính của mình qua trang điểm: Mắt kẻ đậm, tóc bới cao và rất nhiều lớp mascara. Chính sự tự chủ ở những không gian mà đàn ông không thể xâm phạm vào, The Ronettes thoát khỏi những áp đặt đặc trưng cho các cô gái nhạc pop thập niên 1960 (đoan trang, ngoan ngoãn và tất nhiên là không mặc những chiếc váy bó gợi cảm như The Ronettes). Có thể thấy, họ đã lén lút tạo ra một ban nhạc rock ‘n’ roll dưới hình dạng cải trang là pop. Khôn khéo và tinh tế, các cô gái đã có được thứ họ có, bất chấp những kiểm soát ngặt nghèo.
Be My Baby được cả NME, Time và Pitchfork bình chọn vào danh sách những ca khúc hay nhất thập niên 1960. Năm 1999, nó được giới thiệu vào Đại sảnh Danh vọng Grammy. Năm 2004, Rolling Stone xếp nó đứng thứ 22 trong danh sách 500 Ca khúc vĩ đại nhất mọi thời đại vì tính tiên phong trong thu âm của nó. Năm 2017, Billboard chọn Be My Baby là ca khúc đứng đầu danh sách 100 Ca khúc vĩ đại nhất mọi thời đại của các nhóm nhạc nữ.
Ca khúc 'Good Vibrations' của The Beach Boys: Bản 'giao hưởng' bỏ túi
Chính từ đam mê Bach, đam mê âm nhạc giao hưởng và ám ảnh về những cảm giác không nắm bắt được, Wilson đã làm nên kiệt tác Good Vibrations (Rung cảm đẹp).
Đồng sáng lập ra The Beach Boys - một trong những đại diện cho pop Mỹ thập niên 1960, Brian Wilson là người hâm mộ cuồng nhiệt với Johann Sebastian Bach: "Tôi phải nói với bạn rằng Johann Sebastian Bach là nhà sáng tạo âm nhạc vĩ đại nhất lịch sử nhân loại.
Ông đã rất tân tiến vào thời của mình. Có một chiều sâu tâm linh trong âm nhạc của ông".
Nhắc tới Charlie Chaplin, điều đầu tiên nhiều người nghĩ tới hẳn là hình ảnh hài hước về "vua hề Sác-lô" . Bản thân Chaplin lại nói: "Tôi có rất nhiều vấn đề trong cuộc sống. Nhưng môi tôi là không biết điều đó. Chúng luôn cười". Thế nhưng, nụ cười nhiều khi chính là cách để giải quyết mọi vấn đề của cuộc sống.
Chính từ đam mê Bach, đam mê âm nhạc giao hưởng và ám ảnh về những cảm giác không nắm bắt được, Wilson đã làm nên kiệt tác Good Vibrations (Rung cảm đẹp).
Đặc trưng bởi lối âm thanh phức tạp, cấu trúc đa đoạn và sự phá bỏ những công thức của nhạc pop, Good Vibrations là đĩa đơn đắt giá nhất từng được thu âm tại thời điểm nó phát hành.
Cảm xúc từ "những rung cảm vũ trụ"
Những ảnh hưởng tới từ tuổi thơ giống như một hạt giống nhỏ. Thời gian có thể khiến hạt giống đó thối chết, trôi vào quên lãng, hoặc có thể nuôi nó lớn thành cây đại thụ. Brian Wilson, ngay từ nhỏ, đã được mẹ gieo cho một hạt giống và theo năm tháng, nó đã giúp ông làm nên kiệt tác thời đại.
Brian Wilson đã làm nên một cuộc cách mạng âm nhạc từ khi rất trẻ, nhờ ảnh hưởng từ mẹ
Hạt giống này mang tên những rung cảm vũ trụ. "Mẹ thường nói với tôi về những rung cảm. Tôi không hiểu lắm nó là gì vì khi đó tôi chỉ là một cậu bé. Nó khiến tôi sợ, cái từ "rung cảm" đó. Mẹ nói với tôi rằng lũ chó sủa người này mà không sủa người khác, ấy là vì chúng nhận rung cảm từ con người. Nghĩ về sự tồn tại của những cảm giác vô hình, những rung cảm vô hình khiến tôi sợ chết khiếp".
Ở tuổi thiếu niên, cậu bé Wilson bắt đầu làm nhạc và chính thức lập ra The Beach Boy vào năm 1961, khi 19 tuổi. Các chàng trai không phải là những nhạc sĩ giỏi nhất, nhưng rõ ràng là họ có thể hát. Thuở mới bắt đầu, Wilson say mê các nhóm hát như The Four Freshmen và đã định hình âm nhạc của nhóm theo họ. Dần dần, The Beach Boys làm ra nhiều hit hơn, nhóm bắt đầu đi lưu diễn nhưng Wilson không hào hứng với ánh đèn sân khấu lắm. Anh muốn ngồi nhà, viết nhạc và sản xuất bản thu.
Vào năm 1966, khi rock 'n' roll đang biến đổi, trong Wilson cũng có những xáo trộn. Âm nhạc của anh trở nên nội tâm hơn: Ít những chuyện xe cộ, trai gái mà đi sâu vào tâm hồn, tình yêu đích thực. Anh nghe album Rubber Soul của The Beatles - một kiệt tác về tâm hồn - và bị rúng động. Anh cảm thấy thách thức phải làm một album kinh điển, và đó là cách album Pet Sounds ra đời. Cũng vào lúc này, hạt giống mẹ gieo vào anh cựa quậy đòi thoát ra ngoài, đưa Wilson tới với sáng tác quan trọng bậc nhất của mình: Good Vibrations - một tập hợp những "cảm giác" bất chợt đến với anh, đại diện cho những tâm trạng khác nhau, mà anh muốn ghép lại thành bức tranh hoàn hảo.
Bìa đĩa "Good Vibrations" của The Beach Boys
Đắt xắt ra miếng
Nhà sản xuất âm nhạc huyền thoại Phil Spector là thần tượng của chàng trai Wilson. Khi đó, anh thường qua lại phòng thu Goldstar, xem và nghiên cứu. Spector luôn biết cách phối âm, cải biên và sản xuất ra những ca khúc tuyệt diệu với âm thanh hùng vĩ. Wilson nắm lấy cốt yếu đó và biến nó thành của mình.
Với album Pet Sounds, Wilson đã mời đội ngũ tạo hit của Spector về giúp sức. Wilson thuê Tony Asher viết lời cho dự án và đã đạt thành công với Good Vibrations.
"Cậu ấy muốn gọi ca khúc là Good Vibes" - Asher nhớ lại. "Tôi nhớ khi cậu ấy bắt đầu chơi một đoạn riff nhỏ, mà cậu nói là đang viết. Cậu nói gì đó như: Đẹp, rung cảm đẹp, tôi đã có được rung cảm đẹp. Tôi đáp: Cậu biết đấy, thật sự phải rung cảm. Và cậu nói: Đúng rồi, nhưng không phải kiểu mọi người nói".
Bản "giao hưởng" bỏ túi "Good Vibrations":
Thành viên The Beach Boys Mike Love và Wilson sau đó đã thay đổi lời của Asher nhưng ý tưởng chung thì vẫn vậy: Ca khúc là về một chàng trai bắt được những rung cảm tuyệt vời - từ màu sắc quần áo, ánh nắng trên tóc, âm thanh dịu nhẹ, cơn gió thoảng mùi thơm - từ một cô gái.
The Beach Boys bắt đầu ghi âm album vào năm 1966. Good Vibrations không nằm trong album. Wilson cảm thấy phải dấn sâu hơn nữa.
Cuối năm đó, anh liên tục mang các nhạc sĩ cùng làm Pet Sounds trở lại phòng thu - đôi khi 10 phút, đôi khi 6 tiếng - để khi thì làm tổng thể ca khúc, khi thì làm đi làm lại một đoạn nhỏ xíu. Các nhạc sĩ đều nhận thấy rõ: Đây chắc chắn không phải một đĩa đơn rock hạng trung.
"Mọi người sẽ ngồi trước giá nhạc với một tờ giấy trắng và đợi cho tới khi Brian lượn lờ cho các nốt nhạc, bởi cậu ấy biết chính xác mình muốn gì" - người chơi harmonica Tommy Morgan kể. "Cậu ấy rõ mọi nốt nhạc trong đầu mình".
Rất nhiều nhạc sĩ khác đã nói đi nói lại cùng điều này, với cùng một sự kinh ngạc. Wilson biết đàn bass chơi ra sao. Anh biết âm thanh organ phải thế nào. Anh dùng phòng thu, kéo những ý tưởng từ trong đầu ra đĩa, thu âm từng đoạn từng đoạn, lấy âm thanh từ 3 phòng thu khác nhau. Đây là một ý tưởng mang tính cách mạng về thu âm.
Mike Melvoin, người chơi organ trong nhiều phiên thu âm Good Vibrations, nhớ lại. "Chúng tôi làm 2, 3 bản thu âm mỗi ngày, không quá phức tạp. Ở đây là 1 bản pop. Và rồi đột nhiên, cậu ấy bước vào, bật liền các ca khúc lên. Giống như mảnh này nối tiếp mảnh kia, mỗi chúng là 1 nhân vật hoàn toàn khác nhau. Mọi người chỉ có thể òa lên".
"Nó không phải kiểu rock 'n' roll thông thường. Ý tôi là, nó không phải Help Me, Rhonda, không phải Surfin' U.S.A" - tay bass Carol Kay nói. "Nó là một phần của bản giao hưởng".
Cứ như thế, Wilson bắt những rung cảm của mình từ không khí, chiết xuất thành từng mảnh âm nhạc. Cùng với đội ngũ, anh miệt mài thu âm duy nhất 1 ca khúc trong rất nhiều ngày (nhiều người nói là tới 18 ngày). Tới cuối cùng, khi những băng thu âm xếp chồng cao tới hơn 1 mét (chi phí thì khỏi phải nói!), Wilson mới cảm thấy đủ và bắt đầu phân chia các chương, ghép lại thành bản giao hưởng nhỏ của mình.
Sau nhiều tháng làm việc đơn độc, Wilson mới sẵn sàng chơi bản giao hưởng nhỏ của mình cho anh em Carl và Dennis, cho người họ hàng Mike và người bạn Al.
"Họ choáng váng. Choáng váng thật sự" - Wilson nhớ lại. "Họ nói: Trời đất, sao anh có thể làm vậy hả Brian? Tôi đáp: Có gì đó bên trong tôi. Tôi nói: Tôi phải làm gì đó. Tôi sẽ làm được. Họ tiếp: Thật diệu kỳ. Thế là họ đã hát rất hay để cho tôi thấy họ thích nó như thế nào. Họ hát vì tôi".
Khi một nghệ sĩ hoàn thành tác phẩm của mình thì phần còn lại xin trả cho khán giả và thời gian.
BLACKPINK bị "bóc" hát nhép từ chương trình radio cho đến concert, netizen bất ngờ bênh vực: Thiếu gì lúc nhóm hát live đâu nào! Theo cư dân mạng, không thể phủ nhận năng lực của BLACKPINK chỉ qua một vài khoảnh khắc nhóm bị cho là hát nhép. Từ khi debut đến nay, BLACKPINK luôn được đánh giá là có kỹ năng ca hát tốt, nhiều lần nhóm được khen vì hát live ổn định. Thế nhưng mới đây, cư dân mạng trên diễn đàn Pann (Hàn...