Buộc hai tay, bò quanh núi đá mấy ghìn lần để cai nghiện
Gần chục năm nay, Lương Minh Giang sống trên một ốc đảo nhỏ, nằm lẻ loi giữa hồ sông Đà và để đi ra được chốn này cách chỉ duy nhất là vượt 2km bằng thuyền độc mộc. Người đàn ông sống quạnh quẽ trên đỉnh núi Tháu giữa lòng hồ Thủy điện Hòa Bình này có số phận dông bão và cách anh đứng dậy làm lại cuộc đời khiến người ta tưởng chừng như một cuốn truyện dài.
Giang hồ một thời
Theo chiếc thuyền độc mộc đến căn nhà của anh Giang nằm trên ốc đảo nhỏ, tôi được anh kể về cuộc đời mình. Mà thực sự nghe nó như một cuốn truyện dài. Ở đấy có sự đứng lên, phục thiện của một con người từng lầm lỡ, nghiện ngập. Lương Văn Giang sinh năm 1957, trong một gia đình công chức tại TP.Hòa Bình, bố anh trước là Chánh án TAND thành phố, mẹ làm ở Bệnh viện tỉnh. So với bạn bè trang lứa thời ấy, Giang bảo nhà anh thuộc thành phần cơ bản, không giàu có nhưng cũng không phải nghĩ nhiều đến cái ăn cái mặc. Và Giang đã không phụ công ơn cha mẹ khi suốt 9 năm liền đều là học sinh giỏi, thậm chí có năm là học sinh giỏi của toàn miền Bắc. Một tương lai đầy hứa hẹn đang chờ đợi anh ở phía trước.
Anh bảo, những ngày trước năm 1975, anh đam mê và có ý định sẽ theo học đại học hoặc làm một công việc gì đó. Nhưng cuộc sống vốn không như anh mong đợi, cái chí của một thằng đàn ông muốn ôm súng lên đường giải phóng đất nước nó thấm vào máu của tất cả lũ con tra khiến anh cũng muốn theo đuổi nó. Và rồi từ giã những ngày học cuối cấp, Lương Văn Giang lên đường vào Nam trong hào khí hừng hực của cả dân tộc những ngày đầu năm 1975. Mặc áo lính chỉ hơn 5 năm thôi nhưng Giang có cơ hội được tham dự vào 3 sự kiện lớn của dân tộc trong giai đoạn ấy. Giải phóng Sài Gòn xong, anh và đồng đội đã nhận nhiệm vụ sang chiến trường K khu vực biên giới Tây Nam. 4 tháng sau, đơn vị lại ngược ra Bắc lên vùng Võ Nhai (Thái Nguyên) để chuẩn bị cho công cuộc bảo vệ biên giới phía Bắc.
Anh Giang kể tiếp: “Năm 1980, tôi ra quân và phía trước là kế hoạch đi học nước ngoài mà bố tôi đã sắp đặt sẵn, nhưng không hiểu sao, ước muốn được ngao du sơn thủy trong những tháng năm lửa đạn lại ùa về. Ông cụ nhà tôi đã gần như ngất xỉu khi nghe tin tôi từ chối du học và sẽ ngược lên chốn rừng xanh núi đỏ để… đi buôn”.
Anh bảo đó là một dấu mốc, một bước ngoặt đánh dấu cho một giai đoạn đầy hãi hùng mà đôi khi giật mình tỉnh giấc trong đêm, anh đều sửng sốt như không tin đó là sự thật. Thậm chí, đó là chuỗi những tháng ngày của quá khứ mà anh muốn quên. Chính anh cũng không thể tin rằng sau những gì mình đã lún sâu vào, khi bàn tay đã vấy máu tanh và tiền bẩn, anh lại còn cơ hội làm lại cuộc đời.
Sông Đà của những ngày đầu năm 1980 đã được Nguyễn Tuân nói kỹ trong bài ký “Người lái đò sông Đà” nổi tiếng, là con sông nguy hiểm và hung dữ nhất Việt Nam thời điểm đó. Hành trình 170 thác, 130 ghềnh dọc sông Đà đã in dấu chân Lương Minh Giang không biết bao nhiêu lần. Một mình một bè, chơ vơ giữa trời nước, đánh đu với chính mạng sống của mình, Lương Minh Giang đã trở thành một tay anh chị vùng sông nước với những bè gỗ từ vùng thượng du Mường Tè (Lai Châu), Phù Yên (Sơn La) về tới bến Trung Hà (Hà Tây cũ).
Và như thế, cuộc đời của “gã giang hồ họ Lương” gắn liền với búa rìu, dao kiếm. Ngay cả khi ngủ, Giang cũng chỉ khép hờ 2 mí mắt để chỉ một tiếng động nhẹ như tiếng lá rơi nghiêng là gã cũng kịp tỉnh giấc để nắm chặt chuôi dao sẵn sàng tử thủ với những kẻ cướp hàng. Sự nguy hiểm trong công việc cũng tỷ lệ với lợi nhuận. Chặng đường càng khó khăn, nhiều cửa tử thì lợi nhuận thu được càng nhiều, càng đủ để đốt cháy lòng tham vô đáy của những kẻ như Giang. Sa chân vào nghiện ngập, nhìn người cha già đau khổ trên giường bệnh, Lương Minh Giang quyết tâm làm lại cuộc đời. Bò quanh núi đá mấy nghìn lần, đập gãy hàng trăm chiếc búa tạ, Giang mới thoát khỏi “cái chết trắng” trở về với cuộc sống bình thường.
Nhớ lại thời “hoàng kim”của mình, Giang bảo lúc đó tiền nhiều vô kể. Nhiều đến mức mà anh phải cho vào bao tải rồi vứt chỏng chơ dưới ván thuyền. 23 tuổi và vô số tiền bạc. Chán nản và mất phương hướng. Giang bập vào thuốc phiện và cờ bạc như một tất yếu. Giang kể đã có những lần sau khi thanh toán hàng hóa xong, anh vác từng túi tiền nặng trịch về Cầu Đất (Hà Nội) cờ bạc và hút xách đến hàng tháng trời mới về lại Hòa Bình.
Video đang HOT
Thời điểm đó, Giang làm ra nhiều tiền của đến như vậy là bởi anh liều lĩnh. Làm cái nghề này người nào liều lĩnh đã là một nửa thành công. Thứ hai là “cái đầu” của một người đã đi đây đi đó, biết lắng nghe và suy xét. Ngồi nói chuyện, Giang bảo duyên nợ là rất đúng. Duyên thì rõ rồi, còn nợ thì chính anh là “con nợ” của chị, anh đã nợ chị một món nợ ân tình mà những tháng ngày hoàn lương của mười năm sau anh đã coi như những hành động sám hối và trả nghĩa lại người phụ nữ mà có lẽ, ông trời đã ban xuống cho cuộc đời phiêu bạt của anh. Đến với anh, chấp nhận sống cùng một người chồng nghiện ngập, với chị, như một lẽ bình thường, cũng như tình yêu chị dành cho anh vậy. Năm 1990 đứa con trai đầu lòng ra đời, Lương Văn Giang quyết định lên bờ với… hai bàn tay trắng.
Thậm chí đã có thời gian, để mưu sinh, Lương Minh Giang phải cầm dao cướp của tại một số nơi như bưu điện thị xã, chợ Hòa Bình, trở thành nỗi ám ảnh của người dân những nơi này. Trước đứa con bất trị không bảo ban được, cha Giang đã xin nghỉ hưu sớm và từ đó, sức khỏe của ông cũng xuống dần theo những lần “ lên cơn nghiện” của Giang. Quỳ bên cha già suốt đêm hôm ấy, Giang quyết tâm phải làm lại cuộc đời.
Làm lại cuộc đời
Không chỉ ngày ấy mà giờ đây, núi Tháu, ốc đảo nằm chơ vơ giữa lòng hồ thủy điện vẫn là một vùng núi vô cùng hoang vu, quạnh quẽ. Chỉ núi đá nối tiếp đá núi. Thời anh lên đây không một bóng người, thực ra trước đó cũng đã có 4 hộ gia đình lên đây tính kế lập nghiệp nhưng rồi lần lượt phải bỏ đi bởi sự hoang sơ và thú dữ.
Giang kể, thời ấy có những con rắn hổ chúa ùa vào nhà, chúng to lớn đến mức có hôm cắn chết 4 con chó một lúc, mất gần một tháng anh mới thu phục được. Hay có lần, cũng chính tay anh đã hạ gục một con gấu nặng 50 cân. “Cũng gọi là đã trải mọi thăng trầm thì việc cai nghiện là việc khó nhất trong cuộc đời tôi đã gặp”.
Thương vợ, anh bảo chị cứ mỗi lần anh lên cơn là chị và con hãy chạy thật xa, cứ mặc anh. Có những lần tưởng không cưỡng lại nổi anh lại tự lấy dao đâm tay chảy máu để nhờ cảm giác đau đớn sẽ “cắt cơn”. Không thành công, anh lại nhờ chị buộc hai tay lại để… bò quanh núi đá.
Nhớ lại chuyện cũ, Giang đau đớn: “Tôi sẽ không bao giờ quên được hình ảnh cha tôi nằm trên giường bệnh bất lực nhìn đứa con trai ngỗ ngược. Ông không còn đủ nước mắt để khóc, chỉ có những dòng đục đục từ khóe mắt chảy ra thôi…”.
Anh bảo, anh không nhớ đã bò đi bò lại mấy nghìn lần, đến khi núi đá mòn nhẵn, đầu gối chi chít sẹo thì hành trình cai nghiện của anh cũng thành công. Mỗi khi lên cơn, anh hành xác bằng cách bê từng hòn đá lên xếp gọn trên đó để tìm đất trồng cây. Đêm đêm khi vợ con đã say ngủ, nhớ thuốc anh lại ngồi dậy cầm cuốc xẻng ra đào ao để thả cá. Đó chính là chiếc ao mà bây giờ đưa về cho gia đình anh 30 triệu đồng tiền cá mỗi năm. Toàn bộ đá xây ngôi nhà anh đang ở, đá xây chuồng bò, đá để lát sân… cũng là thành quả lao động của anh trong những cơn ác mộng đã qua ấy. “Hàng trăm chiếc búa tạ đã hỏng và tôi có ngày hôm nay”.
Ngày hôm nay của anh, Giang bảo không phải là những thành quả có thể nhìn và đong đếm được mà cái quan trọng là anh đã làm lại cuộc đời, đã biết dạy cho hai đứa con một trai, một gái về những lẽ sống và lòng hướng thiện bằng quá khứ đầy ám ảnh của mình. Cuộc đời dài lắm nhưng đôi khi cuộc đời cũng chỉ như bóng câu qua cửa sổ. Rất nhiều lần trong đêm khuya, khi vợ con đã say giấc, Giang lại lẳng lặng xuống bếp cùng với cây ghi ta âm thầm hát những lời buồn của Trịnh Công Sơn: “Cuộc đời đó, có bao lâu, mà hững hờ…”.
Theo ANTD
Phố 'hàng độc' ở Buôn Đôn
Những ngày cuối tuần, khách đến Buôn Đôn (Đăk Lăk) nườm nượp. Người ta đến để được ngắm voi, cưỡi voi và quan trọng hơn vì không cưỡng được lời đồn đại rằng Buôn Đôn bày bán rất nhiều loại... hàng độc!
Anh Hùng năm nay 33 tuổi (ngụ phường Long Bình, quận 9, TP HCM) tuy được sinh ra và lớn lên ở thành phố nhưng lại rất "máu rừng", cụ thể hơn là máu cái vụ săn đồ rừng để làm vật lưu niệm bày biện trong tư gia. Trong phòng riêng của mình, Hùng bày rất nhiều đồ độc có xuất xứ từ rừng núi như đầu sừng sơn dương, heo rừng, nai cà-tông (loài to lớn có cặp sừng chẻ thành nhiều nhánh). Cùng đó là vô số nanh vuốt mãnh thú, có cả mấy con trăn, rắn hổ chúa, báo, mèo rừng, đại bàng... nhồi bông trông cứ như thật!
Cận cảnh bộ sưu tập khủng của một dân chơi.
Hùng tự hào khoe bộ sưu tập đồ rừng được anh thu nhặt từ nhiều chuyến du lịch, du khảo ở khắp cánh rừng Tây Bắc và Tây Nguyên, chủ yếu từ vùng rừng của quê hương đất đỏ bazan màu mỡ. Hùng không nhớ đã bao lần lội rừng Tây Nguyên, trong đó Đăk Lăk là địa bàn tới lui thường xuyên và Buôn Đôn là tâm điểm nhằm "săn đồ độc".
"Hàng rừng ở Buôn Đôn dữ thần lắm, ông muốn gì, muốn con nào, muốn trong tình trạng nào cũng được các chủ quầy hàng chuyên bán đồ lưu niệm đáp ứng tận răng, miễn là chịu chi. Ví như loài báo hoa mai, ông muốn da có da, muốn nanh vuốt có nanh vuốt, muốn nhồi bông có nhồi bông, muốn có bộ xí quách để ninh cao bồi bổ sức khỏe cũng có nốt... Nói chung là đồ rừng ở Buôn Đôn rất phong phú, việc mua bán dễ dàng nên tôi thường xuyên tới lui nơi này săn hàng là vậy", Hùng giải thích.
Hùng kéo khách đến trước chiếc tủ kính âm tường sâu khoảng 40 cm, dài gần 3 m, khung viền được ốp gỗ pơ-mu lên nước bóng loáng, bên trong có hơn chục "đầu lâu" còn nguyên bộ răng hàm lẫn răng nanh mà theo lời Hùng toàn thú dữ như gấu, cọp, beo, heo rừng. Những cái sọ thú ấy có cái úa màu thời gian với màu ngà trầm lắng nhưng cũng có cái trắng hếu, chứng tỏ đó là "hàng" mới chứ không phải đồ lâu năm. Hùng bỏ nhỏ "toàn hàng Buôn Đôn không đấy!".
Chỉ vào cái sọ thú trắng hếu có 4 răng nanh, Hùng bảo hôm hay tin vua săn voi Amakông qua đời, anh lên Đăk Lăk để đưa tiễn ông vua không ngai cuối cùng trên đất Tây Nguyên về nơi an nghỉ cuối cùng và nhân thể tuyển cái sọ này. "Đây là sọ của một con báo. Tôi mua nó với giá 4 củ (4 triệu đồng). Cũng cái sọ này nhưng đám con buôn ở phố rao giá đến hơn chục củ. Nó quý ở chỗ hổng mất cái răng nào, đặc biệt là mấy cái răng nanh nhọn sắc như dao cạo".
Tại Buôn Đôn, hầu như quầy hàng lưu niệm nào cũng bày bán lông đuôi voi hay nhẫn xỏ lông đuôi voi. Người ta tin rằng lông đuôi voi là biểu tượng của sự may mắn và thủy chung. Ai đeo nhẫn vận may sẽ đến liên tục và với những đôi lứa đang yêu nhau, nếu chàng trai (cô gái) tặng cho người tình chiếc nhẫn lông đuôi voi thì chẳng lo người tình phản bội, hay chơi trò bắt cá 2 tay. Bị người bán "thuốc" như thế nên thiên hạ tin ầm ầm, ai đến Buôn Đôn cũng mua ít nhất một cái lông đuôi voi với giá 100.000-200.000 đồng (tùy mức độ dài ngắn) về xỏ nhẫn hay tặng người thân mà không hề biết đó là... đồ dỏm.
Bên cạnh mặt hàng chủ lực là lông đuôi voi, những gì liên quan đến thú dữ có tên trong Sách đỏ Việt Nam được bày bán la liệt tại Buôn Đôn. Tại kiốt của bà Xuân, thấy khách dán mắt vào nhúm lông đuôi voi song tỏ ý không mặn mà, bà chủ lên giọng trấn an và quả quyết lông đuôi voi thiệt chứ không phải giả. Để chứng minh, bà Xuân thọc tay vào hộc tủ lấy ra một mẫu đuôi voi khô đét với tua tủa lông rồi hắng giọng: "Mua đồ của chị em an tâm tuyệt đối, hàng từ đuôi voi thứ thiệt chứ không phải hàng dỏm. Mua cái thứ này nếu em lơ ngơ dễ bị người ta thuốc lắm!".
Thấy khách chẳng đoái hoài đến cái vụ lông đuôi của những ông Bồ (voi rừng - cách gọi của người Chơro) nên bà Xuân thay đổi chiến thuật. Kéo khách vào trong, bà này dừng lại trước chiếc tủ kính bên trong lổn nhổn các mặt hàng lưu niệm từ voi rừng như nịt da voi, lược xương voi, tẩu hút thuốc bằng xương voi, thậm chí có cả những mặt hàng bằng ngà voi được chạm khắc đủ kiểu. Bà Xuân tiếp tục khẳng định tất cả mặt hàng này đều từ voi chính hiệu và quảng cáo: "Nịt da voi chắc chắn, càng sử dụng lâu càng lên nước bóng loáng. Lược từ xương voi, ngà voi là thứ quý hiếm ngày trước chỉ vua chúa mới được dùng, nó có tác dụng điều hòa khí huyết, giúp xua đuổi tà khí, giúp ổn định nhịp tim nên người giàu có thường đeo còng ngà voi là vậy".
"Phụ tùng của heo rừng, gấu, cọp, voi... muốn gì có nấy".
Nếu như kiốt của bà Xuân và một số người khác chuyên các mặt hàng về voi thì tại quầy hàng mỹ nghệ của người đàn ông tên Minh chỉ cách quầy của bà Xuân mươi bước chân bày bán đủ loại thủ cấp của mãnh thú Buôn Đôn. Ông Minh bày trong quầy hàng của mình hầu như chẳng thiếu "cơ phận" của con gì, tất nhiên là những loài thú nổi tiếng đẹp, có sức mạnh vô song, được người đời hăng hái săn lùng, như: gấu, cọp, beo, voi... Đa phần món hàng độc ấy là nanh vuốt và đặc biệt hơn có những cái đầu lâu thú hoang nguyên hộp sọ, bộ xương hàm cùng răng nanh tua tủa.
Vờ bảo mấy thứ này thường, hỏi rằng có món gì độc hơn, ông Kiên, chủ quầy hàng lưu niệm tại lối vào cầu treo bắc sang đảo Ây-Nô, trọng điểm tham quan của Buôn Đôn, lên giọng: "Muốn beo rừng, da hổ, gấu nhồi bông gì cũng ok. Có điều giá hơi đắt sợ chú em mày theo không nổi"...
Beo, gấu, cọp, voi, voọc... đều là những loài thú quý hiếm có tên trong Sách đỏ Việt Nam. Đặc biệt là cọp và voi, không chỉ được Sách đỏ Việt Nam mà còn cả Sách đỏ thế giới liệt vào nhóm động vật hoang dã nguy cấp đứng trước nguy cơ tuyệt chủng và nghiêm cấm mọi hành vi săn bắt, giết hại, mua bán dưới mọi hình thức. Thế nhưng tại Buôn Đôn, sự thể hoàn toàn trái ngược. Người ta mặc sức bày bán các mặt hàng liên quan đến cơ thể của 2 loài này một cách công khai, ầm ĩ mà chẳng gặp bất kỳ sự cấm cản nào.
Trò chuyện về những mặt hàng độc từ mãnh thú trong khi những người bán khẳng định "rừng chính hiệu" thì nhiều người dân sở tại ôm bụng cười với lời khuyên đừng dại trả tiền thật rinh đồ dỏm. "Voi ở Buôn Đôn giờ chỉ còn khoảng 50 con, mỗi con chỉ có 200-300 sợi lông đuôi. Nhổ một sợi lông đuôi sẽ làm voi đau đớn, vết thương chảy máu, thịt thối, voi sẽ đau bệnh nên đâu có chuyện chủ voi nhổ lông đuôi bán cho khách", nài voi Y Nul 31 tuổi, bật mí.
Theo Y Nul, có thể lấy chuyện lông đuôi voi giải thích cho hàng loạt chuyện nanh vuốt, sọ thú được bày bán ở khu du lịch: "Lông đuôi voi được đúc từ nhựa tổng hợp. Và nanh vuốt thì cũng được chế biến theo công thức đó. Chứ cọp làm gì còn mà ai cũng bán, khách mua bao nhiêu cũng có".
Theo VNE
Thêm thủy điện Sơn La, sẽ hết cắt điện? Thủy điện Sơn La khánh thành sớm trước thời gian dự kiến 3 năm là thành công lớn. Tuy nhiên, người dân không khỏi băn khoăn về việc thủy điện này có làm cho việc cắt điện luân phiên vào mùa khô giảm đi? Thêm 2 lần tăng giá Nằm ở bậc thang thứ 2 trong hệ thống bậc thang thủy điện trên...