Bộ Y tế đề xuất cho kết hôn đồng giới
Bộ Y tế kiến nghị khi sửa Luật Hôn nhân-Gia đình cần chấp nhận kết hôn đồng giới vì nó là quyền được sống thực với gì mình có – đó là quyền con người.
Trong bài tham luận gửi về Bộ Tư pháp để phục vụ cho buổi họp trực tuyến tổng kết 13 năm thi hành Luật Hôn nhân-Gia đình năm 2000 sẽ tổ chức vào ngày mai (16/4), PGS-TS Nguyễn Viết Tiến, Thứ trưởng Bộ Y tế đã thay mặt bộ này đề xuất cho phép kết hôn đồng tính.
Theo Thứ trưởng Tiến, từ năm 1990, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã loại bỏ đồng tính ra khỏi danh sách bệnh tâm thần. Trong khi đó, đến hiện nay, ở Việt Nam không có cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nào chữa bệnh đồng tính. Đứng ở góc độ y tế thì đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính và chuyển giới (gọi chung là người đồng tính) không phải là một loại bệnh. Vì vậy, y học không thể can thiệp và cũng không thể chữa khỏi.
Tuy nhiên, theo ông Tiến, Khoản 5 Điều 10 Luật Hôn nhân-Gia đình năm 2000 lại quy định cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính. “Tại sao pháp luật lại quy định như vậy?”- ông Tiến hỏi và tự trả lời: Là vì những người cùng giới tính kết hôn với nhau thì đi ngược lại truyền thống đạo đức, trái với tự nhiên, không phù hợp với chức năng của gia đình là duy trì nòi giống hay vì lo ngại rằng nếu pháp luật cho phép kết hôn đồng tính có thể kéo theo nhiều hệ lụy như việc nhận con nuôi của các cặp đồng tính. Việc được nuôi dưỡng bởi hai người đồng tính có thể ảnh hưởng đến nhận thức, tâm sinh lý của đ.ứa t.rẻ được nhận nuôi. Hôn nhân đồng giới sẽ dẫn đến nhiều thay đổi như sự biến mất của định nghĩa “cha” – “mẹ” trong luật dân sự, sẽ kích thích các cặp đồng tính sử dụng phương pháp mang thai hộ.
Tuy nhiên đứng ở góc độ quyền con người, ông Tiến cho rằng người đồng tính cũng có quyền sống, quyền ăn, ở, mặc, quyền được yêu thương và mưu cầu hạnh phúc. Đứng ở góc độ quyền công dân, họ được lao động, học tập, khám bệnh, chữa bệnh, khai sinh, khai tử, kết hôn…. có quyền và thực hiện các nghĩa vụ với Nhà nước và xã hội.
Đám cưới giữa 2 thanh niên Nguyễn Hoàng Bảo Quốc và Trương Văn Hên ở Hà Tiên (tỉnh Kiên Giang) diễn ra giữa năm 2012
Do chưa có nghiên cứu chính xác về số lượng người đồng tính tại Việt Nam nên người đồng tính vẫn chưa được xã hội và pháp luật Việt Nam thừa nhận. Điều đó khiến nhiều người đồng tính thường không dám công khai giới tính thực của mình vì họ sợ sự kỳ thị, xa lánh từ người thân, bạn bè, đồng nghiệp. Nhiều người đồng tính sống dưới một vỏ bọc khác, không sống thật với giới tính của mình. Sự lừa dối này gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho những người trong cuộc.
Nghiên cứu mới đây của Viện nghiên cứu xã hội, kinh tế và môi trường (ISEE) về người đồng tính nam cho thấy 90% người đồng tính cảm thấy xã hội có thái độ tiêu cực với mình và từ đó có đến 86% trong số họ phải che giấu chuyện tính dục của mình với mọi người xung quanh.
Hầu hết người đồng tính gặp phải sự định kiến và kỳ thị của gia đình và bạn bè. Trong số 1.800 người tham gia trả lời, 20% đã nói rằng vì việc họ đồng tính mà đã mất bạn, 15% bị gia đình la mắng, 6,5% mất việc, 4,5% bị đ.ánh và 4,1% bị đuổi ra khỏi nhà. Ngoài ra, họ còn có thể bị bạo lực thể xác, bạo lực tâm lý, bạo lực t.ình d.ục và các hình thức ép người đồng tính đi chữa bệnh tâm thần.
Video đang HOT
PGS-TS Nguyễn Viết Tiến cho rằng vấn đề kết hôn giữa những người đồng tính là một vấn đề thực tế hiện nay. Việc quy định cho phép kết hôn hay không cần phải được tiến hành điều tra, phân tích, đ.ánh giá, cân nhắc để có đủ cơ sở khoa học khi đưa vào Luật Hôn nhân-Gia đình sửa đổi.
Chính vì thế, Bộ Y tế đề xuất cho phép kết hôn đồng tính vì nó là quyền được sống thực với gì mình có – đó là quyền con người.
Nhiều nước cho phép kết hôn đồng giới
Thống kê của Bộ Y tế cho thấy hầu hết các quốc gia thừa nhận hôn nhân đồng tính đều có quy định quá độ trong luật pháp, ban đầu là thừa nhận quyền của người đồng tính, tiếp đó là việc chung sống như vợ chồng của người đồng tính rồi mới quy định về thừa nhận hôn nhân đồng tính.
Điển hình, Hà Lan quy định về đăng ký kết hôn dân sự giữa những người cùng giới tính vào năm 1998, nhưng đến năm 2001 mới thừa nhận chính thức hôn nhân hợp pháp giữa người cùng giới. Canada thừa nhận quyền chung sống của người đồng tính vào năm 1999 và đến năm 2005 mới thừa nhận hôn nhân đồng giới và quyền xin con nuôi.
Nước Bỉ đã cho phép hôn nhân đồng giới vào năm 2003 cặp đôi đồng giới có các quyền lợi như cặp đôi khác giới tính, riêng quyền xin con nuôi chỉ được cho phép vào năm 2006.
Tháng 7/2005, Tây Ban Nha cho phép hôn nhân đồng giới và quyền xin con nuôi cuối năm 2006, Nam Phi là nước Châu Phi đầu tiên cho phép hôn nhân đồng giới và quyền xin con nuôi.
Tháng 1/2009, Na Uy cho phép các cặp đôi đồng giới được quyền kết hôn, xin con nuôi và thụ tinh nhân tạo. Tại Bồ Đào Nha, đạo luật ngày 1/6/2010 thay đổi định nghĩa của hôn nhân bằng sự xóa bỏ việc chỉ dành cho “người khác giới tính” nhưng không cho phép cặp đôi đồng tính nhận con nuôi. Argentina trở thành nước đầu tiên tại Châu Mỹ La tinh cho phép hôn nhân đồng giới ngày 15/7/2010 cặp đôi đồng giới hưởng tất cả các quyền lợi như cặp đôi khác giới tính và có quyền xin con nuôi.
Hai nước chỉ cho phép hôn nhân đồng giới ở một số vùng lãnh thổ là: Mỹ (Washington, Maryland, Connecticut, Iowa, Massachusetts, New Hampshire, Vermont, New York ) và Mexico (ở thủ đô Mexico).
Một số quốc gia đã ban hành các quy định về việc chung sống giữa hai người đồng giới với việc mở rộng các quyền lợi cho người đồng tính, như Đan Mạch (1989), Pháp (1999), Đức (2001), Phần Lan (2002), Nouvelle-Zélande (2004), Anh (2005), Cộng hòa Séc (2006), Thụy Sĩ (2007), Uruguay, Colombia, Irlande (2011).
Tại châu Á, Trung Quốc và Ấn Độ không thừa nhận hôn nhân đồng tính, nhưng đã hợp pháp hóa quan hệ đồng tính vào năm 1997 (Trung Quốc), 2009 (Ấn Độ).
Theo 24h
Người đồng tính được cưới nhau?
Luật Hôn nhân - Gia đình sửa đổi cho phép người đồng tính được cưới nhau, đồng thời đưa ra những quy định để giải quyết hậu quả pháp lý về tài sản, con nuôi... nếu sau đó mỗi người một ngả.
Ngày 16/4, Bộ Tư pháp sẽ tổ chức hội nghị trực tuyến toàn quốc tổng kết 13 năm thi hành Luật Hôn nhân - Gia đình (HN-GĐ) năm 2000. Hàng loạt bất cập liên quan đến độ t.uổi kết hôn, mang thai hộ, kết hôn giữa người cùng giới tính, thỏa thuận về tài sản trước hôn nhân, chế độ cấp dưỡng cho con cái sau ly hôn... sẽ được đưa ra bàn thảo để sửa đổi trong luật mới.
Cho phép mang thai hộ
Theo Bộ Tư pháp, thực tiễn cuộc sống cho thấy rất nhiều cặp vợ chồng có nhu cầu nhờ người mang thai hộ nhưng Luật HN-GĐ năm 2000 chưa quy định cụ thể, còn Nghị định 12/2003 của Chính phủ về sinh con theo phương pháp khoa học lại nghiêm cấm các hành vi mang thai hộ và sinh sản vô tính. Việc nghiêm cấm đã hạn chế mong muốn chính đáng của rất nhiều gia đình hiếm muộn, vô sinh. Trong nhiều gia đình, em gái muốn mang thai hộ chị gái và được gia đình ủng hộ nhưng pháp luật lại nghiêm cấm...
Trao đổi với phóng viên Báo Người Lao Động, TS Nguyễn Văn Cừ (Trường ĐH Luật Hà Nội), thành viên ban soạn thảo, cho biết luật mới sẽ có hẳn một chương quy định về vấn đề mang thai hộ, trong đó cho phép chị em gái, người thân trong gia đình được mang thai hộ cho nhau.
Tư vấn cho các cặp vợ chồng hiếm muộn tại Bệnh viện Nam học Hà Nội. Ảnh: NGỌC DUNG
Đi kèm với quy định nhân đạo đó sẽ có hàng rào pháp lý để bảo đảm quyền, nghĩa vụ của người mang thai hộ... "Cho phép mang thai hộ chứ không phải "đẻ thuê" nên chắc chắn sẽ có quy định chặt chẽ nhằm chống việc thương mại hóa chuyện này" - TS Cừ khẳng định.
Còn kỳ thị người đồng tính
Một nội dung quan trọng trong lần sửa đổi Luật HN-GĐ lần này là việc bỏ quy định "cấm kết hôn" giữa những người cùng giới tính. Theo ban soạn thảo, vấn đề kết hôn của những người đồng tính và việc thực hiện, bảo vệ các quyền con người của họ đã và đang là vấn đề thực tiễn ở Việt Nam.
Thời gian qua, nhiều người đồng tính đã bị kỳ thị, phân biệt đối xử hoặc bạo lực gia đình nhưng pháp luật Việt Nam nói chung và Luât HN-GĐ nói riêng chưa có quy định rõ ràng về bảo vệ quyền của họ. Thậm chí, nhiều địa phương đã xử phạt những người đồng tính tổ chức đám cưới.
"Trong lần sửa đổi này, chúng tôi sẽ bỏ chữ "cấm" để thay vào đó bằng từ ngữ nhẹ nhàng hơn là "không công nhận quan hệ vợ chồng của những người cùng giới tính". Như vậy, những người đồng tính có thể tổ chức đám cưới rồi chung sống nhưng chưa được đăng ký kết hôn" - ông Cừ nói.
Theo ông Cừ, đi liền với đó là những quy định để giải quyết hậu quả pháp lý về tài sản, con nuôi... của những cặp đôi cùng giới tính nếu sau đó mỗi người một ngả.
Còn tranh luận về độ t.uổi kết hôn
Liên quan đến vấn đề độ t.uổi kết hôn, TS Nguyễn Văn Cừ cho biết vẫn còn nhiều luồng ý kiến khác nhau. Bên cạnh quan điểm nên giữ nguyên độ t.uổi kết hôn như hiện nay (nữ đủ 18 t.uổi, nam đủ 20 t.uổi), có không ít ý kiến cho rằng nên quy định "nam, nữ đủ 18 tuổi" ở những vùng dân tộc, miền núi thì được dựa vào phong tục tập quán để cho phép kết hôn từ 15 - 17 t.uổi.
"Kết luận cuối cùng về độ t.uổi kết hôn sẽ thuộc về Quốc hội. Tuy nhiên, pháp luật phải mang tính thống nhất trên cả nước. Nếu thực tế ở một số vùng miền vì phong tục tập quán mà xảy ra tình trạng tảo hôn, vi phạm thì Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao sẽ có văn bản hướng dẫn để xử lý phù hợp, nhân văn" - TS Cừ giải thích.
Lập hôn ước trước khi kết hôn
Luật HN-GĐ hiện hành đã ghi nhận và bảo vệ quyền sở hữu tài sản riêng của vợ, chồng. Tuy nhiên hiện nay, việc chứng minh đâu là tài sản riêng gặp rất nhiều khó khăn nếu hai bên không có thỏa thuận trước hoặc không có các chứng cứ, tài liệu để chứng minh.
Qua thực tiễn tổng kết thi hành Luật HN-GĐ năm 2000, Bộ Tư pháp thấy rằng việc lập hôn ước trước hôn nhân là cách ứng xử công bằng và tiến bộ, giúp kế hoạch dự trù tài sản riêng hay tài sản chung trong hôn nhân và giảm thiểu xung đột, tiết kiệm được án phí tranh tụng trong trường hợp ly hôn.
Theo 24h
Đám cưới đồng tính gây "bão" dư luận Thời gian gần đây, hàng loạt đám cưới đồng tính diễn ra rầm rộ hay sự việc các cặp đôi đồng tính công khai chung sống đã khiến dư luận xôn xao. Tại Việt Nam, đồng tính vẫn là vấn đề nhạy cảm và chưa được xã hội thừa nhận chính thức. Ngay cả các chuyên gia cũng chưa thống nhất về bản...