Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng: Cần có tầm nhìn mang tính chiến lược trong lập quy hoạch
Tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc về công tác quy hoạch, sáng 19/8, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng thẳng thắn nhìn nhận những hạn chế khiến việc triển khai Luật Quy hoạch chưa đạt tiến độ.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng. Ảnh: Dương Giang/TTXVN
Theo Bộ trưởng, những nguyên nhân của việc chậm trễ là do tư duy trong việc lập quy hoạch và quản lý nhà nước còn chậm được đổi mới, chưa muốn thay đổi theo yêu cầu của Luật Quy hoạch; nhất là việc trông chờ điều chỉnh quy hoạch thời kỳ 2011-2020 để dễ thực hiện.
Những kết quả bước đầu
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trước khi Luật Quy hoạch được Quốc hội ban hành vào năm 2017, cả nước có tới gần 20.000 bản quy hoạch khác nhau. Số quy hoạch nhiều nhưng thiếu sự liên kết, thậm chí là không thống nhất giữa các ngành, lĩnh vực, địa phương, vùng miền, dẫn tới nguồn lực không được tận dụng một cách hiệu quả nhất.
Với việc ban hành Luật Quy hoạch, Quốc hội và Chính phủ quyết tâm đổi mới công tác quy hoạch, theo hướng thống nhất, đồng bộ, tích hợp. Tuy vậy, việc lập quy hoạch quốc gia, quy hoạch vùng, ngành, địa phương đang có sự chậm trễ nhất định. Khi chưa có quy hoạch, nhiều nơi gặp khó khăn trong việc triển khai các kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội.
Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, sau hơn 2 năm, Luật Quy hoạch có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2019, bước đầu đã đạt được một số kết quả nổi bật. Cụ thể, về hoàn thiện thể chế, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Quy hoạch, các luật, pháp lệnh có liên quan đến quy hoạch đã được cấp có thẩm quyền ban hành cơ bản đầy đủ và đồng bộ, tạo hành lang pháp lý cần thiết để triển khai công tác quy hoạch thời kỳ mới.
Việc tổ chức lập các quy hoạch theo Luật Quy hoạch đã đạt kết quả bước đầu quan trọng. Theo báo cáo của các bộ, ngành và địa phương, dự kiến trong năm 2021, sẽ có 19/38 quy hoạch ngành quốc gia, 01/06 quy hoạch vùng, 26/63 quy hoạch tỉnh hoàn thành công tác lập và trình thẩm định; các quy hoạch còn lại sẽ được hoàn thiện và trình thẩm định trong năm 2022.
Cùng với đó, các bộ, ngành, địa phương đã từng bước chuyển đổi hoạt động quản lý nhà nước phù hợp quy định của Luật Quy hoạch, theo hướng “Chính quyền là một tổng thể thống nhất”, tăng cường phối hợp, chia sẻ thông tin liên ngành, liên cấp. Các bộ, ngành, địa phương đã bãi bỏ các quy hoạch về hàng hóa, sản phẩm, dịch vụ cụ thể; thay thế bằng các điều kiện, tiêu chuẩn, quy chuẩn, góp phần đơn giản hóa điều kiện kinh doanh cho doanh nghiệp, nhà đầu tư và tạo dựng môi trường đầu tư, kinh doanh công bằng, thông thoáng.
Chất lượng quy hoạch cũng từng bước được cải thiện thông qua quy trình lập quy hoạch dựa trên cách tiếp cận tích hợp đa ngành và áp dụng các công nghệ tiên tiến; khắc phục được sự chồng chéo, xung đột giữa các quy hoạch riêng lẻ.
Tuy nhiên, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho rằng, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, việc triển khai Luật Quy hoạch gặp một số khó khăn. Trước hết đó là việc chậm ban hành một số văn bản hướng dẫn chi tiết các luật, pháp lệnh có liên quan đến quy hoạch; vẫn còn sự chưa thống nhất với quy định của pháp luật về quy hoạch, gây khó khăn cho bộ, ngành, địa phương trong tổ chức lập, thẩm định quy hoạch.
Bên cạnh đó, nhiều địa phương còn lúng túng trong triển khai các quy định mới của Luật Quy hoạch, nhất là phương pháp lập quy hoạch theo cách tiếp cận tích hợp, đa ngành. Một thách thức nữa là tiến độ lập quy hoạch thời kỳ 2021-2030 tuy đã được đẩy nhanh trong thời gian gần đây, nhưng còn chậm so với yêu cầu của thực tiễn.
Video đang HOT
Ngoài ra, khó khăn cũng đến từ hạn chế của phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương trong công tác quy hoạch. Thông tin, cơ sở dữ liệu về quy hoạch chưa được xây dựng đồng bộ để phục vụ cho việc lập quy hoạch thời kỳ mới.
Không những thế, do số lượng quy hoạch phải lập nhiều và phải được lập đồng thời, trong khi phương pháp làm mới, phức tạp, chưa có kinh nghiệm, cán bộ chuyên môn của các cơ quan, đơn vị tư vấn lập quy hoạch còn thiếu về số lượng, hạn chế về năng lực nên chưa đáp ứng được yêu cầu. Bên cạnh đó, quy trình, thủ tục phức tạp, không lường hết được các khó khăn, nguồn lực cần thiết nên mục tiêu đặt ra tại Nghị quyết số 11/NQ-CP về triển khai thi hành Luật Quy hoạch là cao so với thực tiễn, dẫn đến không đạt được tiến độ.
Bộ trưởng Dũng cũng đề cập đến diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19 đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ lập quy hoạch thời kỳ 2021-2030, các đơn vị tư vấn không tiếp cận được thực địa để khảo sát, nghiên cứu và lập quy hoạch.
“Nguồn vốn cho công tác quy hoạch thuộc hệ thống quy hoạch quốc gia sử dụng vốn đầu tư công, do vậy, nhiều quy hoạch phải chờ kế hoạch trung hạn giai đoạn 2021-2025 được Quốc hội thông qua mới có cơ sở triển khai thực hiện…”, Bộ trưởng Dũng cho biết thêm.
Cần giải pháp thực hiện đúng, nhanh, chất lượng
Để tháo gỡ kịp thời vướng mắc, khó khăn và đẩy nhanh tiến độ lập các quy hoạch thời kỳ 2021-2030 theo quy định của Luật Quy hoạch, tại hội nghị, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng đã đề xuất một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm.
Theo đó, Bộ trưởng đề nghị các bộ, ngành tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo trong việc triển khai lập các quy hoạch thời kỳ 2021-2030; khẩn trương rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản hướng dẫn thi hành các luật, pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều có liên quan đến quy hoạch cho phù hợp với quy định của Luật Quy hoạch. Các bộ, ngành tập trung nghiên cứu xây dựng, quản lý, khai thác hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu quốc gia về quy hoạch.
Cùng với đó, ngay trong tháng 9/2021, các bộ, ngành cần khẩn trương xây dựng và ban hành các văn bản về quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, định hướng phát triển và sắp xếp, phân bổ không gian theo nhiệm vụ được giao tại Chỉ thị số 30/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp triển khai lập đồng thời các quy hoạch thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 trong khi các quy hoạch cấp quốc gia chưa được lập và phê duyệt. Từ đó, tạo điều kiện thuận lợi cho các bộ, ngành, địa phương tổ chức lập quy hoạch thuộc trách nhiệm của ngành, lĩnh vực, địa phương mình.
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cũng kiến nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương khẩn trương xây dựng lộ trình, tiến độ và kế hoạch cụ thể theo tháng đối với từng giai đoạn của quá trình lập quy hoạch gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp, theo dõi. Từ đó, bộ có cơ sở báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về tiến độ thực hiện và kịp thời giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Bên cạnh đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề xuất Chính phủ giao cho các bộ, ngành chủ trì, phối hợp với Bộ rà soát, trình Chính phủ sửa đổi hoặc sửa đổi theo thẩm quyền những quy định trong các văn bản hướng dẫn chưa phù hợp với quy định của Luật Quy hoạch, gây khó khăn trong việc lập quy hoạch của các địa phương, Việc sửa đổi căn cứ theo đề xuất, kiến nghị của các địa phương; đồng thời, cho phép sử dụng nguồn vốn chi thường xuyên để triển khai lập, thẩm định, phê duyệt và điều chỉnh quy hoạch có tính chất kỹ thuật, chuyên ngành.
Đối với các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, bí mật nhà nước và quy hoạch vùng, Chính phủ cho phép các bộ, ngành có liên quan được lựa chọn tư vấn lập quy hoạch theo hình thức lựa chọn nhà thầu trong trường hợp đặc biệt quy định tại Điều 26 Luật Đấu thầu.
Bộ trưởng Dũng cũng nhấn mạnh, Chính phủ và các địa phương sẽ phải đánh giá cái gì làm được và cái gì chưa làm được, vì sao chậm, nguyên nhân tại sao, vướng mắc ở khâu nào. Cũng cần tập trung giải quyết vấn đề gì để đảm bảo tiến độ, chất lượng, sao cho các quy hoạch đưa ra phải là quy hoạch tốt nhất.
“Quan trọng nhất là phải xác định được nhận thức của các cấp, các ngành, nhất là những người lãnh đạo đứng đầu. Khi có nhận thức đúng vai trò và tầm quan trọng của công tác quy hoạch thì chúng ta mới tổ chức thực hiện đúng nhanh và chất lượng. Các cấp, các ngành phải đổi mới tư duy trong việc lập quy hoạch. Phải có tầm nhìn mang tính chiến lược cho các quy hoạch để đảm bảo có sức sống dài hơn, cho sự phát triển của đất nước”, Bộ trưởng Dũng nhấn mạnh.
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng: Tôi rất sốt ruột về phát triển kinh tế tư nhân
Chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân (KTTN) cứ 10 năm lại có sự thay đổi tích cực, tạo cơ hội cho khu vực kinh tế này ngày càng lớn mạnh, đóng góp quan trọng vào sự phát triển của đất nước.
Tuy nhiên trong quá trình triển khai thực hiện, vẫn còn nhiều điểm nghẽn cần tháo gỡ để giải phóng nguồn lực rất lớn từ khu vực kinh tế tư nhân.
Chưa thực sự là động lực quan trọng
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH và ĐT) vừa tổ chức hội thảo lấy ý kiến góp ý hoàn thiện đề án Đổi mới toàn diện quản lý nhà nước trong phát triển KTTN ở Việt Nam (Đề án).
TS Phan Đức Hiếu, Phó viện trưởng Quản lý kinh tế T.Ư (CIEM) cho biết, qua 35 năm Đổi mới, Đảng ta đã ban hành nhiều Nghị quyết thừa nhận và khẳng định vai trò, vị thế của KTTN, từ "không hạn chế việc mở rộng kinh doanh" đến "khuyến khích, tạo điều kiện phát triển" và "phát triển mạnh KTTN trở thành một trong những động lực của nền kinh tế". Đặc biệt từ năm 2017 đến nay Đảng ta xác định "phát triển KTTN trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Trên thực tế, KTTN ngày càng lớn mạnh về số lượng và chất lượng. Trung bình trong giai đoạn 2016-2019, mỗi năm cả nước có 126.593 doanh nghiệp (DN) thành lập mới với tổng số vốn đăng ký 1,35 triệu tỷ đồng, tăng 49,3% về số DN và tăng 24,8% về số vốn đăng ký so với giai đoạn 2010-2015.
Vị trí, vai trò của KTTN ngày càng trở nên quan trọng trong nền kinh tế, đóng góp 43% vào GDP, 49% tổng đầu tư toàn xã hội, 15,4% ngân sách nhà nước và đặc biệt là thu hút khoảng 85% việc làm trong xã hội. Đã xuất hiện những DN tư nhân có sức cạnh tranh trong khu vực và quốc tế. Nhiều DN tư nhân trở thành mũi nhọn trong một số ngành và lĩnh vực, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế, lao động và an sinh xã hội.
Tuy nhiên, khu vực KTTN chưa phát triển tương xứng với tiềm năng, thể hiện ở một số chỉ tiêu vẫn chưa có sự cải thiện đáng kể, nhất là năng suất và tốc độ tăng năng suất lao động; năng lực khoa học công nghệ của các DN còn hạn chế, có nơi còn lạc hậu; trình độ quản trị DN còn thấp; tính liên kết, hợp tác giữa các DN yếu. Phần lớn DN có quy mô nhỏ và siêu nhỏ.
Nguyên nhân quan trọng của thực trạng này là do những nút thắt trong quản lý nhà nước về kinh tế. Bộ trưởng KH và ĐT Nguyễn Chí Dũng chỉ rõ, vẫn còn nhiều rào cản, nút thắt, điểm nghẽn mà chúng ta chưa tháo gỡ, khơi thông nên chưa giải phóng được nguồn lực từ tư nhân mặc dù nguồn lực này rất lớn.
"Tôi rất sốt ruột. Rất nhiều chính sách phát triển KTTN đã được ban hành nhưng vẫn vướng, nhất là tiếp cận nguồn lực đất đai, tín dụng. Làm thế nào thể chế thuận lợi, hấp dẫn, thân thiện, bảo đảm an toàn cho người dân, DN đầu tư kinh doanh thay vì mua vàng cất trữ. Thái độ ứng xử với khu vực này thế nào, phải thay đổi từ tư duy. Công tác xây dựng thể chế của bộ ngành phải thay đổi, phải kiến tạo chứ không chỉ xem xét ở khía cảnh quản lý", Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng trăn trở.
Theo Bộ trưởng, muốn đạt mục tiêu trở thành quốc gia phát triển cao vào năm 2045 như văn kiện Đại hội XIII đề ra, phải trông vào phát triển KTTN, phát triển DN nhỏ và vừa. Chỉ còn mười năm để làm tốt việc này vì đến năm 2030, Việt Nam chuyển sang giai đoạn già hoá dân số.
Chúng ta đang có cơ hội vàng để hiện thực hoá khát vọng của dân tộc. Đó là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và chiến tranh thương mại đang tạo ra làn sóng chuyển dịch mạnh mẽ. Thể chế, môi trường kinh doanh của Việt Nam đang ngày càng cải thiện tốt hơn. Bên cạnh đó, Việt Nam đã ký nhiều hiệp định thương mại thế hệ mới, tạo ra thị trường rộng lớn cho các DN phát triển. Đồng thời, đại dịch Covid-19 bên cạnh những tác động tiêu cực cũng mở ra nhiều cơ hội mới.
Đổi mới toàn diện về quản lý kinh tế
Theo TS Phan Đức Hiếu, mục tiêu của Đề án nhằm đề xuất hệ thống giải pháp đổi mới toàn diện quản lý nhà nước thúc đẩy khu vực KTTN phát triển trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Theo đó, đến năm 2030 đổi mới căn bản và toàn diện phương thức quản lý nhà nước theo hướng Chính phủ số, chuyển từ kiểm soát sang kiến tạo; từ can thiệp trực tiếp sang gián tiếp; từ tiền kiểm sang giám sát theo nguyên tắc quản lý rủi ro; tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; phù hợp với nguyên tắc và thông lệ quốc tế.
Để đạt mục tiêu nói trên, cần tập trung thực hiện các giải pháp cụ thể. Đó là, nâng cao chất lượng công tác xây dựng, thực hiện chiến lược, quy hoạch, định hướng kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, quản lý, điều tiết vĩ mô, phát triển các DN vừa và lới trong việc dẫn dắt các ngành kinh tế nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh KTTN, phát triển nguồn nhân lực.
Nâng cao chất lượng, tính khả thi của chính sách ưu đãi, hỗ trợ DN trên nguyên tắc thị trường, cạnh tranh, bình đẳng, công bằng, thúc đẩy hình thành chuỗi giá trị, liên kết DN và sự phát triển bao trùm... Tránh hình sự hoá các quan hệ kinh tế, dân sự và can thiệp vào các vấn đề quản trị nội bộ của DN.
"Các giải pháp cần đưa thành nhiệm vụ cụ thể trong xây dựng Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII. Như vậy mới bảo đảm tính hiện thực trong quá trình thực thi", TS Hiếu nhấn mạnh.
Để KTTN phát triển mạnh mẽ, chuyên gia kinh tế Cao Viết Sinh cho rằng thay đổi quản lý nhà nước về tư duy nghĩa là phải để người dân thực sự được tự do kinh doanh những gì pháp luật không cấm, nộp hồ sơ là được kinh doanh ngay. Không vì một số ít DN vi phạm pháp luật, gây thất thoát cho nền kinh tế mà kìm hãm quyền tự do kinh doanh.
Trong các thành phần kinh tế hiện nay, DN nhà nước (DNNN) là chủ đạo, sản xuất hàng hoá của DNNN chiếm thị phần rất lớn. Thời gian tới cần xem lại thị phần của các khu vực kinh tế để có dư địa cho KTTN phát triển, nếu không, KTTN "chỉ loay hoay với thị phần bé tí" sẽ rất khó lớn mạnh.
Để xây dựng và thực hiện chính phủ số và chính quyền số, cần thay đổi tư duy, cho phép cơ chế thử nghiệm (sandbox) đối với các mô hình kinh doanh mới và tổng kết thực hiện, làm cơ sở xây dựng, ban hành luật thay vì cách hành xử hiện nay có phát sinh doanh thu là thu thuế ngay.
"Trước đây, cải cách thể chế chủ yếu tập trung vào thủ tục hành chính, đem lại kết quả nhất định nhưng đó chỉ là một phần của đổi mới về quản lý kinh tế, không phải giải pháp căn cơ. Ngay trong khu vực KTTN cũng không bình đẳng, có DN tiếp cận tốt nguồn lực đất đai, tín dụng, có DN không tiếp cận được. Vì vậy thời gian tới cần tập trung vào thị trường các nhân tố sản xuất", TS Cao Viết Sinh nói.
Giải quyết những 'nút thắt' trong cổ phần hóa Trong bối cảnh thoái vốn và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước vẫn "ì ạch" suốt thời gian qua, Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Quyết định số 22/2021/QĐ-TTg quy định tiêu chí phân loại, doanh nghiệp có vốn nhà nước thực hiện chuyển đổi sở hữu, sắp xếp lại, thoái vốn giai đoạn 2021 - 2025. Thứ trưởng Bộ Kế...