Bỏ trần “cứng” đối với chỉ tiêu trả nợ nước ngoài
Báo cáo về tình hình nợ công vừa được Chính phủ gửi đến Quốc hội cho biết, một số tổ chức quốc tế như Quỹ Tiền tệ quốc tế, Ngân hàng Thế giới cũng như các cơ quan nghiên cứu trong nước được tham vấn đều khuyến nghị Việt Nam xem xét, điều chỉnh chính sách và công cụ quản lý nợ nước ngoài của quốc gia cho phù hợp hơn với đặc điểm rủi ro của mỗi cấu phần nợ.
Theo báo cáo, với sự điều hành quyết liệt của Chính phủ, công tác quản lý, vay và trả nợ công, nợ Chính phủ trong năm 2020 và giai đoạn 2016-2020 đã đạt nhiều kết quả tích cực, bám sát các mục tiêu, nhiệm vụ về quản lý nợ công. Các chỉ tiêu an toàn nợ được kiểm soát chặt chẽ, nằm trong giới hạn trần nợ công được Quốc hội phê chuẩn và giảm dần qua các năm trong giai đoạn 2016-2019, góp phần làm tăng dư địa chính sách tài khóa.
Trong số 6 chỉ tiêu về nợ công, chỉ có 1 chỉ tiêu không đạt là chỉ tiêu nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia so với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ. Trong khi giới hạn cho phép là dưới 25% thì giai đoạn 2016-2020, con số này đều ở mức xấp xỉ và trên 30% (năm 2020 ước khoảng 34,6%), chủ yếu do hoạt động rút vốn và trả nợ gốc các khoản vay nước ngoài ngắn hạn của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng hàng năm tăng mạnh. Đáng lưu ý, qua nghiên cứu thông lệ quốc tế đối với các quốc gia có thu nhập trung bình, Chính phủ nhận định, việc quản lý, giám sát chỉ tiêu nợ nước ngoài của quốc gia như Việt Nam hiện nay còn khó khăn, bất cập cả về công cụ cũng như phương thức quản lý. Theo kinh nghiệm quốc tế, không có nước nào áp dụng hạn mức trần chung cho chỉ tiêu nợ nước ngoài quốc gia (của khu vực công lẫn khu vực tư), cũng như không quốc gia nào đề ra mức trần chung đối với các khoản vay nước ngoài của khu vực tư nhân. Thay vào đó, các nước thường áp dụng công cụ quản lý đối với từng loại doanh nghiệp, tổ chức cụ thể.
Trước tình hình đó, Thủ tướng Chính phủ đã xem xét, phê duyệt định hướng chính sách chung theo hướng tách bạch quản lý nợ nước ngoài khu vực công và khu vực tư nhân. Theo đó, chỉ đề ra mức trần nợ công nước ngoài trên tổng dư nợ công; thiết lập chỉ tiêu cảnh báo (thay vì mức trần cứng) đối với chỉ tiêu trả nợ nước ngoài của khu vực công và của khu vực tư nhân để có các biện pháp điều chỉnh kịp thời. Về các khoản vay nước ngoài theo phương thức tự vay, tự trả: Cân nhắc bỏ hạn mức trần đối với các khoản vay nước ngoài của doanh nghiệp không được Chính phủ bảo lãnh; nghiên cứu, đề xuất áp dụng bộ công cụ chính sách an toàn vĩ mô và kiểm soát luân chuyển vốn phù hợp với rủi ro của từng đối tượng vay để đảm bảo an ninh tài chính quốc gia.
Video đang HOT
Về thống kê, phân loại nợ nước ngoài: Nghiên cứu và xem xét điều chỉnh phương pháp thống kê nợ nước ngoài của khu vực công và khu vực tư nhân theo nguyên tắc nơi cư trú của chủ nợ để phù hợp hơn với chuẩn mực quốc tế; đồng thời theo dõi chỉ tiêu nợ nước ngoài theo tiêu chí ngoại tệ để quản lý rủi ro tỷ giá.
Dù dịch Covid-19, vốn ngân hàng vẫn đổ vào bất động sản
Trong khi tăng trưởng tín dụng các lĩnh vực ưu tiên không cao như cùng kỳ, vốn ngân hàng vẫn đổ mạnh vào bất động sản.
Ngày 20-5, chia sẻ tại hội thảo "Lựa chọn chính sách phục hồi kinh doanh Việt Nam giai đoạn Covid-19" do trường Đại học Kinh tế - Luật tổ chức tại TP HCM, lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước cho biết tính đến cuối tháng 4, đầu tháng 5, tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng chỉ khoảng 1,2%.
Riêng khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng trưởng tín dụng lại giảm 0,8% phản ánh bức tranh khó khăn của doanh nghiệp khi không biết vay vốn để làm gì. Dưới tác động của đại dịch, những doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ có tiềm lực tài chính hạn chế đã rơi vào tình trạng khó khăn.
Tăng trưởng tín dụng lĩnh vực bất động sản vẫn cao bất chấp dịch Covid-19. Ảnh: Linh Anh
Trong báo cáo vừa gửi Quốc hội, Ngân hàng Nhà nước cũng cho biết tạm tính đến cuối tháng 3, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, dư nợ các lĩnh vực ưu tiên không tăng cao như cùng kỳ năm trước. Riêng dư nợ tín dụng lĩnh vực bất động sản tăng cao hơn mức tăng trưởng chung của hệ thống, tập trung chủ yếu vào dư nợ phục vụ mục đích tự sử dụng (khách hàng vay mua nhà để ở...)
Cụ thể, đến cuối tháng 3, tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản tăng 1,23% so với cuối năm ngoái và chiếm 19,31% tổng dư nợ tín dụng. Trong đó, dư nợ phục vụ nhu cầu về nhà ở chiếm khoảng 62,43% tổng dư nợ cho vay bất động sản.
Theo Ngân hàng Nhà nước, thời gian qua các tổ chức tín dụng đã được yêu cầu tập trung phân bổ nguồn vốn cho vay vào các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ. Kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như bất động sản, chứng khoán...
Cụ thể, cơ quan quản lý yêu cầu ngân hàng thương mại tiếp tục áp áp dụng hệ số rủi ro của các khoản cho vay kinh doanh bất động sản lên mức 200%, tăng hệ số rủi ro đối với khoản cho vay phục vụ đời sống mà tổng số tiền thỏa thuận vay từ 4 tỉ đồng trở lên, giảm dần theo lộ trình tỉ lệ nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn. Các tổ chức tín dụng cũng được yêu cầu phải ban hành quy định nội bộ về cấp tín dụng, quản lý tiền vay đối với kinh doanh bất động sản...
Kết quả, tỉ trọng dư nợ tín dụng đối với mục đích kinh doanh bất động sản trong tổng dư nợ lĩnh vực này ngày càng giảm. Nếu cuối năm 2017, tỉ lệ này là 45,63% thì đến cuối năm 2019 đã giảm về 32,95%.
Sẽ có thay đổi lớn trong quản lý nợ quốc gia? Dự kiến Chính phủ sẽ đề xuất một số thay đổi chính sách đáng chú ý, từ thực tiễn và tham khảo kinh nghiệm quốc tế. Một hướng đề xuất là cân nhắc bỏ hạn mức trần đối với các khoản vay nước ngoài của doanh nghiệp không được Chính phủ bảo lãnh (Ảnh minh họa). Ở bài viết trước, BizLIVE đã đề...