Bộ, tỉnh đánh úp văn bản, doanh nghiệp “sập bẫy”
Nhập máy xén giấy, doanh nghiệp ngành in cũng phải ra Hà Nội xin phép. Đây chỉ là một trong vô vàn câu chuyện về nỗi khổ của doanh nghiệp, khi phải chật vật sinh tồn trong một mạng nhện các thủ tục phiền hà.
Trong lúc Thủ tướng đã đặt mục tiêu cải thiện môi trường kinh doanh Việt Nam tiến tới mức bình quân của ASEAN-4 vào năm 2016, các bộ ngành, địa phương vẫn tiếp tục “đẻ” ra giấy phép con.
Ngỡ ngàng vì bị văn bản “đánh úp”
Đầu năm 2014, hơn 100 doanh nghiệp ngành in đã được lấy ý kiến đóng góp cho dự thảo Nghị định 60 của Chính phủ về hoạt động in (đã được ban hành tháng 6/2014, có hiệu lực từ 1/11/2014). Ở dự thảo lần hai, nhiều đề nghị về đơn giản hoá thủ tục đã được đưa ra, các doanh nghiệp ngành in phấn khởi ra mặt vì hầu hết ý kiến của mình đã được ghi nhận.
Nhưng rồi, vài tháng sau, khi Nghị định 60 ban hành, các doanh nghiệp mới té ngửa rằng, bản chính thức này lại vẫn y chang bản dự thảo lần 1, không được tiếp thu ý kiến sửa đổi.
“Họ ngỡ ngàng và thấy buồn cười vì kiểu ban hành văn bản đánh úp như vậy”, ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng Ban Pháp chế, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) kể lại.
Giấy phép con vẫn sinh sôi ngày càng nhiều (Ảnh baohaiquan).
Kết quả là giờ đây, các doanh nghiệp in lao đao khốn khổ với hàng chục giấy phép con mới, thực chất là giấy phép từng bãi bỏ rồi lại hồi sinh. Từ các loại thiết bị công nghệ cao như máy chế bản, máy in số,… cho đến các loại thiết bị đơn giản như máy xén giấy, máy đóng sách, máy vào bìa…, các doanh nghiệp đều phải ra Hà Nội, xin giấy phép nhập khẩu. Trước đó, họ chỉ phải xin phép duy nhất một loại máy là phototcopy màu.
Ông Tuấn cho biết: “Doanh nghiệp đã tính sẽ phải mất 30-40 ngày để có một giấy phép cho máy xén giấy. Họ nói rằng không hiểu vì sao lại phải xin phép như vậy và đặt câu hỏi, ai hưởng lợi ở việc này?”
Trong khi đó, nhờ sự thông thoáng suốt thời gian qua, ngành in đã tăng trưởng mạnh, 15%/năm, đã trở thành những trường hợp hiếm hoi gia nhập được chuỗi cung ứng linh kiện phụ trợ cho Samsung, Canon, Intel.
Câu chuyện của ngành in chỉ là một trong vô vàn hàng trăm câu chuyện về nỗi khổ của doanh nghiệp, khi phải chật vật sinh tồn trong một mạng nhện các thủ tục phiền hà đó.
“Doanh nghiệp muốn mua một bản tin kinh tế của hãng Reuters cũng phải xin phép, một hãng tàu sẽ phải nộp 100.000 bản mỗi năm tới cơ quan quản lý, mất 208 ngày để chuẩn bị vận đơn… “, ông Tuấn điểm thêm vài trường hợp thủ tục hành chính phi lý, khó hiểu.
Video đang HOT
Theo ông Tuấn, mỗi năm, VCCI gửi đi các cơ quan quản lý khoảng 300 văn bản góp ý tương tự nhưng không ít văn bản một đi không hồi âm trở lại.
Thanh lọc những văn bản lố
Chủ trì cuộc hội thảo về điều kiện kinh doanh hôm 6/4, TS. Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và quản lý kinh tế Trung ương, cho biết, Luật Đầu tư sửa đổi có hiệu lực từ 1/7 tới đây đã nêu rõ, những điều kiện kinh doanh sẽ chỉ được ban hành vì 4 lý do gồm quốc phòng, trật tự và an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khoẻ cộng đồng.
Chúng được quy định tại Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Điều ước quốc tế, nghĩa là chỉ Chính phủ, Quốc hội mới được ban hành. Nhưng hiện nay, có hàng ngàn điều kiện kinh doanh trong 267 ngành lại do các bộ, địa phương quy định.
Nhiều máy móc trong ngành in như máy xén giấy cũng phải xin phép (Ảnh minh hoạ, theo Ioneads).
Một cuộc rà soát sơ bộ của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương cho thấy, hiện có gần 900 trang văn bản với khoảng 6.000 các loại điều kiện kinh doanh khác nhau. Nếu tính đến cả các quy định về trình tự, thủ tục, thời gian để đạt giấy chứng nhận thì sẽ phải gấp 5-6 lần số điều kiện kinh doanh trên.
“Ngoài ra, còn có hàng ngàn công văn điều hành hàng năm của các cơ quan bộ ngành ra đời, chứa đựng đầy rủi ro pháp lý, chi phí tuân thủ cao, thiếu nhất quán, hay thay đổi, không công bằng với doanh nghiệp, nhiều khi đúng chỗ này, lại không đúng chỗ kia,… Thậm chí, có những giấy phép con từng bãi bỏ trước đây, lại được hồi sinh”, ông Cung cho hay.
Ông chia sẻ: “Rõ ràng, chúng ta luôn phải đặt câu hỏi tại sao phải cần có thủ tục, giấy tờ đó nhưng để hiểu được thì thực sự rất khó khăn và nhức đầu”.
Theo dẫn chứng của vị Viện trưởng, một doanh nghiệp muốn kinh doanh dịch vụ vận tải bằng đường bộ, nếu ở Hà Nội, TP.HCM tối thiểu phải có 20 ô tô, ở vùng thành phố khác phải có 10 ô tô, còn ở vùng sâu, xa là cần có ít nhất 5 chiếc. Nhưng vì sao lại phải có điều kiện nay thì không giải thích được.
Hay như trong ngành gạo, ông Cung phân tích, doanh nghiệp muốn xuất khẩu phải có kho chứa tối thiểu 5.000 tấn thóc, có một cơ sở xay sát tối thiểu công suất 10 tấn/giờ. Vậy, nếu doanh nghiệp chỉ có kho chứa 4.500 tấn, hay công suất không đủ liệu có ảnh hưởng gì đến an ninh quốc phòng, trật tự xã hội, đạo sức và sức khoẻ cộng đồng không?
Có thể nói, hàng nghìn điều kiện kinh doanh được ban hành trái thẩm quyền, trái luật đã tồn tại 10 năm nhưng đến nay, vẫn sống… nhởn nhơ.
Ông Cung lý giải: “Ở Việt Nam, người soạn thảo đồng thời lại là người thực thi chính sách. Thế nên, người ta tìm cách cài cắm, đưa quyền lợi của mình vào. Chính sách đã yếu, thực thi lại không đầy đủ, làm cho môi trường cạnh tranh bị méo mó, sức sáng tạo bị thui chột, doanh nghiệp kém phát triển”.
Theo Luật Đầu tư sửa đổi, từ 1/7 tới đây, các loại văn bản quy định điều kiện kinh doanh của các bộ, các tỉnh sẽ đương nhiên trái luật, phải bị vô hiệu.
Tuy nhiên, TS. Cung vẫn rất băn khoăn bởi, khoảng cách giữa luật trên giấy và luật thực tế sẽ ra sao, khi mà với tình trạng giấy phép con hiện nay, hàng loạt câu hỏi vẫn bỏ ngỏ, như: Ai chịu trách nhiệm về thực trạng này? Cá nhân, cơ quan ban hành trái thẩm quyền có bị xử lý? Tại sao văn bản trái luật vẫn được thi hành, người dân, doanh nghiệp vẫn phải âm thầm tuân thủ?
“Tôi nghĩ, chúng ta cứ thế mà làm thôi, không cần phải hỏi lại. Dứt khoát chúng ta phải quản lý theo pháp quyền, có vậy mới lấp đầy khoảng trống hiện nay để tiến tới thể chế kinh tế thị trường hiện đại”, ông Cung nhấn mạnh.
Theo Phạm Huyền
VEF
Đất nước 'chót bảng' và những thách thức đang chờ
VN cần giải quyết thực trạng khiến cho nguy cơ bị rơi vào "bẫy thu nhập trung bình" đang hiện hữu.
LTS: Tại cuộc họp với các bộ ngành tuần qua về cải cách thủ tục hành chính, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã thẳng thắn chỉ ra sự tụt hậu của Việt Nam về năng lực cạnh tranh: "Chúng ta giờ đang đứng chót ở ASEAN-6, có cái còn thấp hơn Lào, Campuchia, Myanmar thì làm sao chấp nhận được. Việt Nam không thể đứng chót trong ASEAN thế này..." Lời cảnh báo của người đứng đầu Chính phủ đã cho thấy tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, hướng đến tìm giải pháp thay đổi. Để góp thêm tiếng nói cho vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh đất nước, chúng tôi xin giới thiệu bài viết dưới đây để bạn đọc cùng trao đổi.
Giống như nhiều nước đang phát triển khác, dù đã đạt được một số thành tựu đáng khích lệ trong vài thập niên qua, Việt Nam hiện đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức trên con đường tiến đến thịnh vượng.
Chỉ dấu của các thách thức này gồm: kinh tế phát triển chậm lại, gia tăng thuế và các loại phí, năng suất lao động thấp, tỷ lệ thất nghiệp khó kiểm soát, nợ công cao thêm.
Song hành với những khó khăn trên, VN còn phải giải quyết các hệ lụy của phát triển như ô nhiễm môi trường, bong bóng BĐS, tham nhũng. Nguy cơ bị rơi vào "bẫy thu nhập trung bình" đang hiện hữu.
Từ lâu, chăm lo các vấn đề xã hội và tăng trưởng kinh tế luôn được xem là các trụ cột phát triển nhằm hướng tới sự thịnh vượng. Tuy nhiên không phải chính phủ nào cũng có khả năng cùng lúc đưa các trụ cột này phát triển đồng đều.
Về nguyên tắc, tăng trưởng kinh tế luôn đòi hỏi các đổi mới đồng bộ khác, trong đó thể chế luôn đóng vai trò then chốt. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, một khi các cải cách về thể chế không theo kịp hoặc không có khả năng giải quyết các bất cập nảy sinh vốn ngày càng phức tạp và khó dự đoán (do quy mô và độ phức tạp của nền kinh tế đất nước ngày càng lớn hơn) thì rất khó duy trì sự ổn định xã hội. Nhìn vào thực trạng kinh tế hiện nay, có thể phần nào khẳng định rằng các cải cách về thể chế của ta chưa đủ đáp ứng được các đòi hỏi cần thiết cho sự thịnh vượng của một quốc gia.
Trên khía cạnh xã hội: Khi đất nước mới thoát khỏi chiến tranh và còn nghèo khó, người dân thường dành sự quan tâm và sức lực cho các nhu cầu thiết yếu và phát triển kinh tế.
Thời điểm đó, xã hội VN mang trong mình một động lực mạnh mẽ và sự khát khao thay đổi vận mệnh đất nước (ít nhất là trong lĩnh vực kinh tế) vốn được khích lệ bởi những thành tựu và thay đổi trong đời sống của dân chúng hàng ngày. Đây chính là thời điểm xã hội Việt Nam lạc quan và cũng ít có những vấn đề nổi cộm nhất.
Khi tích lũy tư bản đã ít nhiều đem lại cho đất nước một số vốn liếng nhất định, cũng là lúc các mâu thuẫn nảy sinh liên quan đến chiếc bánh lợi ích, trong đó ai cũng muốn mình hoặc người nhà mình có được phần to hơn. Tuy tiến hành đổi mới và cải cách sau Trung Quốc và Nga, nhưng Việt Nam vẫn không tránh khỏi việc để phát sinh một số vấn đề không mong muốn.
Việc thiếu vắng cơ chế giám sát hiệu quả cùng những hạn chế liên quan đến tính minh bạch trong quá trình cổ phần hóa các DNNN đã góp phần tạo nên một số nhóm lợi ích của nền kinh tế - những người được hưởng lợi từ việc mua lại nhiều tài sản thuộc sở hữu nhà nước vốn được định giá thấp hơn nhiều lần.
Trong lúc hệ thống quản trị nhà nước còn chưa hoàn thiện để có thể điều tiết nguồn lực, tái phân phối thu nhập và duy trì sự ổn định thông qua việc đảm bảo phúc lợi xã hội cho công dân thì sự gia tăng khoảng cách giàu - nghèo là điều tất yếu và đất nước phải sớm tìm cách giải quyết tình trạng này.
Cần thẳng thắn nhìn nhận một sự thật rất hệ trọng đó là vai trò và uy tín của một bộ phận cơ quan công quyền đang bị người dân đặt dấu hỏi. Thế nên dẫn đến một hiện tượng tâm lý, đó là, tính phản biện và sự bức xúc của dân chúng luôn vỡ ra khi một vụ việc nào đó bị nghi ngờ là liên quan đến các nhóm lợi ích mà chính quyền không có khả năng giải trình thấu đáo, chẳng hạn, vụ lấp sông Đồng Nai vừa qua.
Trên khía cạnh kinh tế: tuy chưa hội nhập sâu vào sân chơi kinh tế toàn cầu, nhưng kể từ khi trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2007, Việt Nam đã chịu nhiều tác động của các biến động của kinh tế thế giới, đặc biệt sự đổ vỡ của nhiều tập đoàn kinh tế lớn của Mỹ và nguy cơ vỡ nợ công của một số nước châu Âu vào những năm 2010s. Bên cạnh các khó khăn liên quan đến thị trường và giá cả hàng hóa xuất khẩu, lạm phát lên cao song hành với lãi suất đã khiến nhiều DN điêu đứng và phá sản. Suy thoái cũng khiến cho các dòng vốn chảy vào ngân hàng bị giảm sút dẫn đến tình trạng khan hiếm vốn và các gói cho vay liên quan đến BĐS bị hạn chế.
Giống như câu chuyện của Ireland hay Hy Lạp, khi bong bóng BĐS vỡ, nhiều công trình, dự án phải dừng lại và nhiều DN đã rút lui hoặc phá sản, làm ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế - có phần đóng góp rất lớn từ ngành xây dựng nhờ việc thúc đẩy các ngành sản xuất phụ trợ khác và tạo ra nhiều công ăn việc làm kể cả chính thức lẫn thời vụ, cũng như đóng thuế cho nhà nước.
Hệ lụy của phát triển thị trường BĐS khó đo đếm nổi: (i) Lãng phí tài nguyên khi một lượng lớn đất sản xuất bị chuyển đổi mục đích sử dụng và bị bỏ hoang; (ii) Gây nên các tranh chấp về đất đai kéo dài và khó giải quyết làm ảnh hưởng uy tín của nhà nước đặc biệt là những trường hợp chính quyền hỗ trợ các doanh nghiệp thu hồi đất của dân mà không đền bù một cách thỏa đáng; (iii) Một lượng vốn khổng lồ cùng các khoản nợ xấu đang bị giam chân tại những công trình dang dở và những bãi đất hoang.
Các thách thức nằm ở hai trụ cột "xã hội" và "kinh tế" là không hề nhỏ. Để tiếp tục tiến lên một cách bền vững, Việt Nam cần có nhiều hơn nữa các giải pháp dài hạn, trong đó cái cách thể chế kinh tế có vai trò nền tảng cho các cải cách khác.
Các yếu kém trong năng lực quản trị và thực thi chính sách của chính quyền các cấp đang gây cản trở các nỗ lực cải cách thể chế của đất nước.
Theo Vietnamnet
Nhiều người TP HCM sập bẫy 'nhận quà tặng' từ nước ngoài Tưởng bạn mới quen ở nước ngoài hào phóng gửi quà về cho mình, nhiều người đã bị lừa đóng các khoản "phí hải quan" để nhận. Ngày 17/3,Công an TP HCM đã bắt Lê Thị Phương Trang (38 tuổi) để điều tra về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Cảnh sát xác định Trang là mắt xích trong đường dây...