Bộ Tài chính đề xuất phương án sửa quy định trần lãi vay: Vì sao bỏ ngỏ việc hồi tố số thuế đã nộp tạm?
Mặc dù ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp không phản đối hồi tố nhưng trong tờ trình gửi Chính phủ ngày 20/2, Bộ Tài chính đã quyết định bỏ quy định hồi tố.
Sau một thời gian dài được hàng nghìn doanh nghiệp mong ngóng, dự thảo Nghị định sửa đổi khoản 3 Điều 8 Nghị định 20/2017 về quản lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết đã được Bộ Tài chính hoàn tất.
Mặc dù Nghị định 20 đã tạo ra sự chuyển biến tích cực trong công tác chống chuyển giá, tăng thu hàng chục nghìn tỷ cho ngân sách nhưng quy định khống chế trần lãi vay ở mức 20% theo khoản 3 Điều 8 đã làm nảy sinh nhiều vướng mắc bất cập tạo gánh nặng chi phí không đáng có cho nhiều Tập đoàn, Tổng công ty có hoạt động trung chuyển vốn, cho vay lại giữa các thành viên trong tập đoàn.
Trên cơ sở thực hiện nghị quyết của Chính phủ và lấy ý kiến của các bộ, ngành, doanh nghiệp, Bộ Tài chính đã đưa ra phương án sửa đổi theo đó trần lãi vay ròng (lãi vay trừ lãi tiền gửi và lãi cho vay) được nâng từ 20% lên 30% tổng lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh trong kỳ cộng chi phí lãi vay ròng cộng khấu hao – tức 30% EBITDA nhưng không bao gồm lợi nhuận ngoài hoạt động kinh doanh chính.
Quy định sửa đổi này được số đông đánh giá sẽ tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và không trái với thông lệ quốc tế. Nhưng một vấn đề quan trọng vẫn còn bỏ ngỏ là liệu các khoản thuế đã nộp do quy định “bất cập” trước đây liệu có được hồi tố?
Trong ý kiến thẩm định đối với dự thảo, Bộ Tư pháp đã đề nghị xem xét nội dung cho áp dụng hồi tố đối với việc xác định định khống chế chi phí lãi vay năm 2017 và 2018 phải đảm bảo lợi ích chung của xã hội, lợi ích của tổ chức, cá nhân; có cơ chế thống nhất chung trong việc thực hiện khoản 3 điều 8 mà không phân biệt những trường hợp đã thanh tra, kiểm tra hay chưa thanh tra, kiểm tra.
Mặc dù ý kiến thẩm định không phản đối hồi tố nhưng trong tờ trình gửi Chính phủ ngày 20/2, Bộ Tài chính đã quyết định bỏ quy định hồi tố. Theo đó Nghị định sửa đổi áp dụng cho kỳ tính thuế năm 2019 mà không xác định lại chi phí lãi vay đã áp dụng theo khoản 3 điều 8.
Video đang HOT
Nhiều ý kiến chuyên gia từ lâu đã nhận định sửa trần lãi vay lên 30% thì cần áp dụng tính hồi tố về năm 2017 khi ban hành Nghị định này vì riêng tiền thuế 2017 và 2018 cũng khiến doanh nghiệp “sống dở chết dở”, hoặc từ lãi chuyển sang lỗ. Phương pháp có thể cho khấu trừ dần vào tiền thuế phải nộp hàng năm.
Việc “hồi tố” theo các doanh nghiệp sẽ tránh được nguy cơ thuế chồng thuế. Bởi theo Nghị định 20, bên cho vay phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp đối với thu nhập từ lãi tiền vay, trong khi bên đi vay cũng phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp đối với chi phí tiền vay vượt mức khống chế.
Với kỳ vọng sẽ được hồi tố tiền thuế đã nộp để giảm bớt khó khăn đang gặp phải, trong nửa đầu năm 2019, Hoàng Anh Gia Lai đã ghi nhận một số khoản thu nhập khác từ việc hoàn nhập chi phí dự phòng thuế thu nhập doanh nghiệp đã được trích lập vào báo cáo tài chính tổng hợp những năm trước lũy kế đến 31/12/2018 với số tiền 335,3 tỷ đồng liên quan đến Nghị định 20.
Nếu phương án không hồi tố được “chốt” thì theo như ý kiến loại trừ của kiểm toán, HAGL sẽ phát sinh thêm khoản thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành khoảng 155 tỷ đồng và lỗ lũy kế tăng thêm 491 tỷ đồng. Đây là một gánh nặng tài chính không đáng có khi mà HAGL đang gặp nhiều khó khăn, thậm chí thua lỗ lớn trong nhiều năm gần đây do quá trình tái cơ cấu ngành nghề kinh doanh.
Và không chỉ riêng Hoàng Anh Gia Lai, nhiều doanh nghiệp khác cũng mong mỏi ngành thuế có sự sửa đổi thấu đáo hơn để tháo gỡ hàng tỷ đồng tiền thuế đang bị treo từ năm 2017, khi kỳ quyết toán thuế năm 2019 (hạn 31/3/2020) đã đến gần và cộng đồng còn đang phải đối mặt với khó khăn đình trệ kinh doanh, sản xuất do dịch Covid 19.
Kiến Khang
Theo Trí thức trẻ
Sửa đổi Nghị định 20: Cần tạo sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp
Bộ Tài chính đang nghiên cứu sửa đổi Nghị định số 20/2017/NĐ-CP theo hướng nâng mức trần lãi vay được khấu trừ thuế từ 20% hiện nay lên 30%. Nhiều chuyên gia e ngại sửa đổi như vậy sẽ khiến cơ quan quản lý nhà nước thất bại trong việc phòng chống hành vi chuyển giá của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI).
Nghị định (NĐ) 20 ra đời với mục tiêu cao nhất là chống chuyển giá/chuyển nợ với mục đích trốn tránh thuế. Đối tượng điều chỉnh của NĐ 20 là các doanh nghiệp (DN) có giao dịch liên kết. Liên quan đến việc chống chuyển nợ/lãi vay, khoản 3, điều 8 của NĐ 20 quy định tổng chi phí lãi vay phát sinh trong kỳ chỉ được khấu trừ thuế nếu không vượt quá 20% tổng lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh cộng với chi phí lãi vay và chi phí khấu hao trong kỳ (EBITDA).
Điều khoản trên của NĐ 20 gặp khá nhiều phản ứng từ các DN trong nước vốn dựa nhiều vào vay nợ, đặc biệt là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước có giao dịch liên kết giữa các thành viên. Hiện, Bộ Tài chính đang đề xuất dự thảo nâng mức trần khống chế chi phí lãi vay lên 30%.
TS. Phạm Thế Anh, Kinh tế Trưởng của Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR).
Đánh giá về vấn đề này, TS. Phạm Thế Anh, Kinh tế Trưởng của Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) cho rằng, Chính phủ không nên nâng mức khống chế tỉ lệ lãi vay/EBITDA được khấu trừ thuế từ 20% lên 30%. Thậm chí, trong tương lai Bộ Tài chính nên có lộ trình giảm tỉ lệ này xuống thấp hơn nữa và tiến tới loại bỏ hoàn toàn việc khấu trừ lãi vay giữa các công ty liên kết. Bởi vì, ngoài việc hạn chế hành vi trốn tránh thuế, việc hạn chế mức trần lãi vay được khấu trừ thuế còn làm tăng khả năng cạnh tranh của các DN trong nước với các DN FDI vốn có lợi thế hơn trong việc tiếp cận nguồn vốn trên thị trường quốc tế hoặc từ các công ty mẹ ở nước ngoài. Tương tự, quy định này cũng hạn chế việc đi vay của các tập đoàn, tổng công ty rồi cho vay lại với các thành viên, giúp làm tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp tư nhân với DN nhà nước vốn có lợi thế hơn về khả năng tiếp cận các nguồn vốn.
Cụ thể hơn, theo TS. Thế Anh, có thể thấy chi phí lãi vay/EBITDA của khu vực DN nhà nước cao hơn hẳn so với khu vực FDI, cụ thể là 11,2% so với 5% trung bình trong giai đoạn 2013 - 2016. Trong khi đó, khu vực ngoài nhà nước, mặc dù có hệ số nợ/vốn chủ sở hữu chỉ xấp xỉ khu vực doanh nghiệp nhà nước, nhưng lại có chi phí lãi vay/EBITDA lớn nhất, có năm xấp xỉ khoảng 30%. Điều này có thể là do khu vực này phải tiếp cận vốn vay với lãi suất cao hơn hoặc kém hiệu quả hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh vì nhiều lý do khác nhau.
Hơn nữa, thống kê số lượng DN có chi phí lãi vay/EBITDA theo các mức độ khác nhau thì có kết quả như sau. Ví dụ, vào năm 2016, số doanh nghiệp có tỷ lệ lãi vay/EBITDA> 20% của khu vực doanh nghiệp nhà nước là 396 DN, của khu vực FDI là 673 DN, của khu vực ngoài nhà nước là 37956 DN.
Như vậy, DN ngoài nhà nước là khu vực doanh nghiệp có tỉ lệ lãi vay/EBITDA trung bình là lớn nhất. Tuy nhiên, đây lại là khối DN ít có quan hệ liên kết nhất nên ít chịu sự điều chỉnh của Nghị định 20. DN nhà nước cũng là nhóm DN có nhiều hoạt động liên kết nhất thông qua mô hình tập đoàn và tổng công ty. Đây chính là lý do tại sao Nghị định 20 gặp nhiều sự phản đối từ nhóm DN này.
Sửa đổi Nghị định 20: Cần tạo sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp.
Trong khi đó, khu vực FDI có chi phí lãi vay quốc tế/lãi vay trong nước bằng khoảng 1,2 lần trong giai đoạn 2013 - 2016. Điều này chứng tỏ khu vực FDI chủ yếu có vay nợ từ thị trường quốc tế, rất có thể là từ các công ty liên kết ở nước ngoài. Do vậy, số DN thực sự chịu sự điều chỉnh của Nghị định 20 trong khu vực FDI còn thấp hơn nữa. Khối này hầu như cũng không có phản ứng gì kể từ khi NĐ 20 có hiệu lực.
Như vậy, nếu nới lỏng trần lãi vay/EBITDA được khấu trừ thuế lên mức 30%, TS. Thế Anh e ngại NĐ 20 sửa đổi sẽ thất bại trong việc phòng chống hành vi chuyển giá của các doanh nghiệp FDI.
Do đó, theo TS. Thế Anh để tạo thuận lợi cho DN, Việt Nam nên điều chỉnh một số ràng buộc trong NĐ 20. Ví dụ như, chi phí lãi vay từ các hợp đồng vay nợ kí kết trước thời điểm Nghị định này có hiệu lực nên được khấu trừ toàn bộ để tránh sự bị động của các DN; cho phép các DN chuyển phần chi phí lãi vay chưa được khấu trừ vào một số năm tiếp theo (có giới hạn), thời hạn kết chuyển có thể là 5 năm và chỉ áp dụng với những DN mới thành lập hoặc có đầu tư lớn vượt một con số nhất định; hay chi phí lãi vay từ các giao dịch vay nợ độc lập nên được miễn trừ hoàn toàn và không chịu sự điều chỉnh của Nghị định 20.
Bên cạnh đó, NĐ 20 nên giới hạn trong mục tiêu chống chuyển giá thông qua các giao dịch vay nợ từ các công ty liên kết. Việc chống xói mòn cơ sở thuế và chống vốn mỏng (cũng thông qua các công cụ trần chi phí lãi vay/EBITDA được khấu trừ thuế và/hoặc trần hệ số nợ/vốn chủ sở hữu) nên được đề xuất trong một quy định khác để đảm bảo quy định đó bao phủ được mọi DN, bao gồm công ty trong các tập đoàn đa quốc gia, tập đoàn trong nước, và cả các công ty độc lập, TS. Thế Anh nhấn mạnh.
Hương Lan
Theo Doanhnhanviet.news
Đề xuất tăng mức giảm trừ gia cảnh lên 11 triệu đồng "Dự kiến giảm thu ngân sách Nhà nước từ thuế thu nhập cá nhân còn khoảng 68.921 tỷ đồng, giảm 13% so với số thu năm 2019", Bộ Tài chính ước tính nếu Dự thảo điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh của thuế thu nhập cá nhân được thông qua. Cụ thể, Báo cáo của Bộ Tài chính cho rằng, đối với...