Biểu hiện bệnh tình dục cực nguy hiểm
Nhiễm khuẩn chlamydia ở người phụ nữ thường không có dấu hiệu rõ ràng và khi phát hiện thì bệnh đã nặng.
Vì vậy, chị em đừng bỏ qua bất kì thay đổi nào của cơ thể vì nó có thể là dấu hiệu nhiễm khuẩn chlamydia.
Nhiễm khuẩn Chlamydia là tình trạng bệnh do vi khuẩn chlamydia tracomatis gây ra, có thể ở cơ quan sinh dục hoặc ở hệ thống cơ quan khác.
Nếu bạn là phụ nữ và quan tâm đến các triệu chứng của bệnh nhiễm khuẩn chlamydia thì bạn nên biết rằng đây là một bệnh lây truyền qua đường tình dục rất nguy hiểm, có thể dẫn đến biến chứng nghiêm trọng bao gồm cả vô sinh và đau vùng chậu mãn tính.
Tuy nhiên, một điều đáng tiếc là những dấu hiệu bệnh này ở phụ nữ thường khó nhận ra và khi phát hiện thì bệnh đã phát sinh các biến chứng.
Nói như vậy không có nghĩa là không có cách nào để nhận biết các triệu chứng ban đầu của bệnh này. Với những chị em nghi ngờ mình bị nhiễm khuẩn chlamydia thì không nên coi thường các biểu hiện sau đây.
1. Dịch âm đạo
Nếu bạn nhận thấy tiết dịch âm đạo bất thường, có thể bạn đang bị bệnh lây truyền qua đường tình dục nào đó, không ngoại trừ nhiễm khuẩn chlamydia. Trong trường hợp này, điều tốt nhất bạn có thể làm là đi khám phụ khoa. Các xét nghiệm có thể cho bạn biết chính xác bạn đang mắc bệnh gì.
2. Chuyện tiểu tiện thay đổi
Nếu bạn đang nghi ngờ về những dấu hiệu nhiễm khuẩn chlamydia ở phụ nữ, bạn không bao giờ được bỏ qua cảm giác bỏng rát hoặc đau khi đi tiểu. Cảm giác này cũng có thể xuất hiện khi giao hợp. Trong trường hợp gặp các triệu chứng như vậy, bạn nên đi khám để tìm ra nguyên nhân chính xác.
Video đang HOT
Khi nói đến các triệu chứng của bệnh nhiễm khuẩn chlamydia ở phụ nữ, nhiều chị em thừa nhận rằng, một trong số những triệu chứng ban đầu mà họ gặp là chảy máu sau khi giao hợp qua đường âm đạo.
Nếu chảy máu khi quan hệ tình dục bạn nên dừng ngay
Nếu bạn cũng thấy hiện tượng này, nên ngừng “quan hệ vợ chồng” trước khi đi khám và được bác sĩ kết luận nguyên nhân do đâu.
4. Đau ở gan và ở bụng
Dấu hiệu nhiễm khuẩn chlamydia ở người phụ nữ cũng có thể bao gồm cả đau bụng. Những cơn đau này có thể đi kèm với đau xung quanh tử cung hay gan. Mặc dù bạn có thể nghĩ rằng gan không có liên quan tới các bệnh lây truyền qua đường tình dục nhưng nếu bạn bị đau ở gan thì rất có khả năng bạn bị nhiễm khuẩn chlamydia.
5. Đau họng
Những chị em đang lo lắng về các triệu chứng của nhiễm khuẩn chlamydia thì nên biết rằng đau họng cũng có thể là một dấu hiệu của nhiễm trùng. Triệu chứng này xuất hiện nhiều hơn ở những trường hợp chị em có quan hệ tình dục bằng miệng với “đối tác” bị nhiễm khuẩn chlamydia.
6. Đau ở lưng dưới hoặc xương chậu
Cơn đau ở xương chậu hoặc ở phần lưng dưới có thể là dấu hiệu người phụ nữ đã nhiễm khuẩn chlamydia. Và khi các dấu hiệu này xuất hiện thì rất có thể nhiễm trùng đã lây lan từ cổ tử cung ra các ống dẫn trứng.
Mặc dù các triệu chứng của bệnh nhiễm khuẩn chlamydia ở người phụ nữ không phải luôn luôn rõ ràng, nhưng chị em hãy thận trọng khi có những thay đổi bất thường của cơ thể, đặc biệt là những thay đổi liên quan đến hoạt động tình dục để có thể đi khám kịp sớm và phát hiện bệnh kịp thời.
Nhiễm khuẩn chlamydia là bệnh tình dục khá phổ biến và dễ dàng lây truyền qua đường tình dục, đặc biệt với những chị em có quan hệ tình dục không an toàn.
Nhiễm khuẩn chlamydia nếu không điều trị kịp thời sẽ dẫn đến nhiễm trùng đường tiểu, nhiễm trùng niệu đạo, viêm vùng chậu, tắc ống dẫn trứng… Trong trường hợp này, người phụ nữ thường có các dấu hiệu như buồn đi tiểu liên tục, đau khi đi tiểu, co thắt vùng chậu, sốt, đau khi giao hợp và đau bụng.
Nhiễm khuẩn chlamydia còn gây nguy hiểm cho khả năng sinh sản của người phụ nữ. Nó có thể khiến chị em khó khăn trong việc mang thai, thai ngoài tử cung, thậm chí có thể gây ra vô sinh. Nếu bệnh trở nên nghiêm trọng, mưng mủ… thì khả năng phải phẫu thuật để cứu cuộc sống của bệnh nhân là khó tránh.
Cũng giống như bệnh lậu, người mẹ đang mang thai mà nhiễm khuẩn chlamydia thì có thể dẫn đến nguy cơ sinh non. Bên cạnh đó, em bé được sinh ra theo cách sinh thường cũng có thể bị nhiễm bệnh. Những em bé nhiễm khuẩn chlamydia có thể phải đối mặt với nguy cơ viêm phổi và nhiễm trùng mắt…
Có thể nói, nhiễm khuẩn chlamydia rất nguy hiểm nếu không được chữa trị kịp thời. Vì vậy, chị em cần hết sức chú ý, phòng bệnh hơn là chữa bệnh nhé. Cách tốt nhất để phòng nhiễm khuẩn chlamydia qua đường tình dục là dùng bao cao su khi có “quan hệ”.
Theo Tạp chí đàn ông
Mẹ truyền bệnh sang con
HIV, viêm gan siêu vi B, herpes (mụn rộp), u sùi, giang mai, lậu, Chlamydia... là những bệnh có khả năng lây truyền từ mẹ sang con cao và gây ra nhiều biến chứng xấu, nguy hiểm cho trẻ.
PGS-TS-BS Ngô Thị Kim Phụng, Trưởng phòng khám Phụ khoa Bệnh viện ĐH Y Dược TP.HCM, cho biết: Những tác nhân gây bệnh là vi khuẩn và vi-rút sẽ lây từ mẹ sang con bằng hai con đường chính: vượt qua hàng rào nhau máu trong quá trình mang thai hoặc qua niêm mạc, vết trầy xước của trẻ từ dịch tiết của người mẹ trong quá trình sinh; riêng vi-rút HIV còn có thể lây qua đường sữa mẹ.
Herpes sinh dục, u sùi mồng gà, Chlamydia, Strepococcus Beta tán huyết là những bệnh lây nhiễm qua đường tình dục, hiện vẫn còn gặp nhiều trong thai kỳ, gây ra nhiều dị tật cho thai nhi. Theo PGS-TS-BS Ngô Thị Kim Phụng, đặc điểm chung của các bệnh là không có vắc-xin phòng ngừa (ngoại trừ u sùi mồng gà) và khả năng tái phát cao. Bệnh có thể lây nhiễm cho trẻ qua cả hai đường hàng rào nhau máu và trong quá trình mẹ sinh.
* Bệnh herpes sinh dục rất dễ tái phát và tái phát nhiều lần nếu sức đề kháng của cơ thể giảm. Nếu mẹ bị nhiễm herpes trong ba tháng cuối thai kỳ, tỷ lệ lây nhiễm sang con rất cao, khoảng 30-40%; trong ba tháng đầu thai kỳ khoảng 1%. Trường hợp bệnh tái phát lần đầu mà rơi vào những ngày gần sinh thì nguy cơ lây nhiễm cho trẻ sẽ cao. Nếu bị nhiễm, trẻ sẽ bị viêm phổi, viêm màng não, gây mù, điếc, động kinh, thậm chí có thể tử vong. Hiện chưa có vắc-xin phòng chống herpes. Do vậy, cách tốt nhất để bệnh không tái phát là thai phụ cần nâng cao sức đề kháng, tránh để cơ thể bị suy nhược - căng thẳng, quan hệ tình dục an toàn. Để hạn chế mức độ lây nhiễm cho con, người mẹ cần sinh bằng phương pháp mổ lấy thai.
* U sùi mồng gà rất dễ lây lan khi mang thai vì miễn dịch của thai phụ giảm. Bệnh do vi-rút HPV gây nên nhưng chỉ có thể điều trị các nốt u sùi bằng cách đốt hoặc chấm thuốc chứ không diệt được. Khi bị lây nhiễm, trẻ sẽ mắc bệnh u nhú thanh quản bẩm sinh. Đây là căn bệnh theo bé suốt cuộc đời và có khả năng tái phát liên tục. Nếu những nốt sùi nhỏ thì vẫn có thể sinh thường, song khi nốt sùi to che cả đường âm đạo thì cần phải mổ lấy thai. Cách tốt nhất để phòng bệnh là tiêm ngừa trước khi mang thai và quan hệ tình dục an toàn.
* Chlamydia là bệnh do vi khuẩn Chlamydia trachomatis gây ra. Bệnh thường tiềm ẩn trong người mẹ mà hầu như không có triệu chứng gì trong khoảng ba tuần đầu. Thai phụ có thể nhận biết bệnh qua biểu hiện bệnh của chồng để khám và điều trị sớm. Chlamydia có thể được điều trị bằng kháng sinh an toàn cho thai phụ. Nếu bị lây nhiễm, bé sẽ bị viêm kết mạc mắt hoặc viêm phổi. Tuy nhiên, sau khi bé ra đời, bác sĩ sẽ cho nhỏ thuốc kháng sinh dự phòng.
Ảnh: Phùng Huy
* Strepococcus Beta tán huyết là bệnh do vi trùng Strepococcus Beta tán huyết gây nên. Tỷ lệ mắc phải ở thai phụ khá cao, lên đến 14%. Nếu bị lây nhiễm, bệnh có thể gây nên chứng nhiễm trùng sơ sinh, nhiễm trùng huyết cho trẻ. Vi trùng gây bệnh có thể ở cả âm đạo và hậu môn của mẹ. Vấn đề quan ngại là bệnh hầu như không có triệu chứng rõ ràng trên lâm sàng. Để phát hiện, cần cấy vi trùng vào âm đạo, hậu môn và làm kháng sinh đồ. Điều may mắn là khi phát hiện, bệnh dễ dàng được điều trị bằng kháng sinh.
* Viêm gan siêu vi B là bệnh do vi-rút viêm gan siêu vi B (HBV) gây nên, bệnh lây nhiễm qua đường máu và tình dục. Khoảng 10-15% thai phụ ở Việt Nam mang kháng nguyên bề mặt HBV. Lây truyền HBV từ mẹ sang con là đường lây phổ biến tại các nước châu Á. Nếu bị nhiễm trong ba tháng đầu thai kỳ, tỷ lệ lây truyền từ mẹ sang con là 1%, ba tháng giữa thai kỳ: 10%, ba tháng cuối thai kỳ: 67%. Khác với người lớn, trẻ sơ sinh bị nhiễm thường không có triệu chứng và không thể loại trừ HBV ra khỏi cơ thể. 85-90% trẻ bị nhiễm sẽ trở thành nhiễm mạn tính, 25% trẻ tử vong vì biến chứng do bệnh gan trong tương lai.
Hiện chúng ta đã có rất nhiều cách để phòng ngừa và hạn chế việc lây nhiễm HBV từ mẹ sang con. Thứ nhất, nếu chẳng may mẹ bị nhiễm bệnh trong quá trình mang thai, tùy vào mức độ, mẹ sẽ được chỉ định tiêm vắc-xin siêu vi B phòng ngừa. Thứ hai, sau khi sinh, trẻ sẽ được làm xét nghiệm DNA để tầm soát và được chích ngừa theo phác đồ phù hợp, sau đó chích nhắc lại. Nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy, tỷ lệ đáp ứng, tiếp thu thuốc rất tốt.
Mẹ bị nhiễm HBV vẫn có thể cho con bú mẹ. Tuy nhiên cần lưu ý trường hợp trẻ cắn đầu vú, làm trầy xước da, các chứng đau miệng hay tưa lưỡi của trẻ. Nếu có bất kỳ trường hợp nào xảy ra, cần điều trị sớm và hỏi ý kiến bác sĩ.
* Giang mai là bệnh lây nhiễm qua đường tình dục. Mẹ bị nhiễm giang mai có thể lây truyền qua nhau thai khiến trẻ bị bệnh giang mai bẩm sinh với những di chứng nặng nề. Thai nhi có thể chết trong tử cung hoặc sau khi sinh hoặc bị những biến chứng về xương, về mắt, khớp hay nội tạng nếu được sinh ra. Tuy nhiên, theo BS Nguyễn Ngọc Thông, Giám đốc Trung tâm Sức khỏe sinh sản TP.HCM, điều đáng mừng là bệnh giang mai hiện hầu như đã được giải quyết, rất hiếm gặp. Điều cần lưu ý là thai phụ cần đi khám thai sớm, tránh chủ quan vì nếu để đến tháng thứ năm, xoắn khuẩn giang mai có thể vượt qua hàng rào nhau máu và lây nhiễm cho trẻ.
* Lậu cũng là bệnh lây qua đường tình dục, đồng thời còn có thể lây qua tiếp xúc bên ngoài (sử dụng chung khăn tắm, bồn tắm, bồn cầu...). Trong khoảng 10 tuần đầu, bệnh thường không có biểu hiện bất thường ở phụ nữ nhưng lại biểu hiện rõ ở nam giới. Do vậy, thai phụ có thể thông qua biểu hiện bệnh ở người chồng để kịp thời đi khám và điều trị sớm từ giai đoạn đầu. Vi khuẩn bệnh lậu lây nhiễm cho trẻ trong quá trình mẹ vượt cạn theo cửa âm đạo, gây nên bệnh viêm kết mạc, loét giác mạc, thậm chí gây mù cho trẻ nếu không được điều trị kịp thời. Bệnh này hiếm gặp, nếu có, hầu hết sẽ được điều trị triệt để. Hơn nữa, để hạn chế sự nhiễm khuẩn cho trẻ, bác sĩ còn dùng dung dịch sát khuẩn và nhỏ mắt dự phòng cho trẻ ngay sau khi ra đời.
* HIV: BS Nguyễn Ngọc Thông cho biết, trẻ có thể nhiễm HIV từ mẹ trong quá trình mang thai, quá trình sinh và qua việc bú sữa mẹ. Khi bị nhiễm HIV từ mẹ, nếu nhẹ, trẻ sẽ bị tổn thương ở não, tim, thận, bị viêm phổi; nặng hơn là hệ thống miễn dịch của trẻ bị suy giảm trầm trọng, không chống đỡ được tình trạng nhiễm khuẩn; không tăng cân, hay bị đau họng hoặc viêm phổi, sưng hạch, gan to, tiêu chảy... Hầu hết trẻ bị nhiễm khó sống được quá ba tuổi. Khi bị nhiễm HIV, thai phụ cần hợp tác với đơn vị chăm sóc và điều trị để được điều trị dự phòng lây nhiễm cho con trong khi mang thai, khi sinh và sau sinh. Mẹ nhiễm HIV, nếu có điều kiện thì nên sinh mổ (dù không có chỉ định sản khoa khác) và không cho con bú sữa mẹ. Trước đây, tỷ lệ lây từ mẹ sang con lên đến 30%. Hiện nay cùng với việc có nhiều phương pháp dự phòng tốt, tỷ lệ lây nhiễm giảm còn khoảng 10%.
Điều quan trọng nhất là thai phụ cần dự phòng lây nhiễm cho bản thân, tiêm chủng trước khi mang thai đối với những bệnh có vắc-xin phòng ngừa, vệ sinh cá nhân tốt, quan hệ tình dục an toàn và phát hiện bệnh sớm, BS Nguyễn Ngọc Thông nhấn mạnh.
Theo PNO
Sống chung với viêm họng Căn bệnh viêm họng sẽ trở thành một mối ám ảnh bạn trong mùa đông. Mùa lạnh, cũng là mùa của viêm họng. Có người tháng nào cũng phải thăm bác sĩ vì "giọng ồm ồm". Có cách nào giúp điều trị căn bệnh dai dẳng này ngay tại nhà không? Tại sao mùa đông hay bị viêm họng? Lây nhiễm virus là...