Biển Đông: Nóng lên cuộc giành giật ngư trường
Khi nói tới biển Đông, dư luận hầu như chỉ quan tâm tới sự tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc và các nước láng giềng, tranh giành ảnh hưởng giữa Trung Quốc và Mỹ hoặc tham vọng chiếm hữu nguồn tài nguyên dầu khí khổng lồ dưới đáy biển, nhưng còn một “mặt trận” hết sức khốc liệt đang diễn ra hàng ngày hàng giờ nhưng âm thầm và ít được chú ý: giành quyền đánh cá.
Tàu hải quân Indonesia (trái) kiểm tra tàu đánh cá Han Tan Cou của Trung Quốc gần quần đảo Natuna của Indonesia.Ảnh: Reuters
Thứ Tư tuần trước (17-8), Indonesia kỷ niệm Ngày Độc lập bằng một động thái gây “sốc”: đánh đắm 71 chiếc tàu cá, phần lớn là tàu Trung Quốc, bị hải quân nước này bắt giữ với cáo buộc đánh bắt cá trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia. Hồi tháng 4-2016, chính quyền Jakarta cũng đã đánh đắm 23 tàu cá Trung Quốc và truyền hình trực tiếp sự kiện này trên mạng để gây chú ý trong công chúng, dẫn đến va chạm ngoại giao giữa hai nước. Từ năm cuối năm 2014 đến nay, Indonesia đã bắt và đánh đắm 236 tàu đánh cá các loại, chủ yếu là tàu nước ngoài, theo báo Wall Street Journal. Malaysia có vẻ cũng muốn đi theo cách của Indonesia, đánh đắm tàu cá nước ngoài để làm thành những dải san hô nhân tạo.
Biển Đông: nguồn sống đang cạn kiệt
Các nước ven bờ biển Đông rõ ràng đang làm mọi cách, kể cả những cách “thất nhân tâm”, để giành và giữ ngư trường cho ngư dân nước mình, trong bối cảnh nguồn tài nguyên hải sản của biển Đông đang cạn kiệt với tốc độ chóng mặt.
Trang mạng chuyên về bảo vệ môi trường The Conservation cho biết, tuy biển Đông có diện tích nhỏ, chừng 3 triệu ki lô mét vuông, nhưng trữ lượng cá rất phong phú: có khoảng 3.365 loại cá biển, cung cấp khoảng 12% lượng cá biển đánh bắt được trên toàn cầu năm 2012, trị giá thương mại khoảng 21,8 tỉ đô la Mỹ. Quan trọng hơn, nguồn cá biển Đông là yếu tố căn bản duy trì an ninh thực phẩm cho hàng trăm triệu người ở các nước ven biển. Một nghiên cứu gần đây cho thấy cư dân ven biển Đông phụ thuộc vào cá biển nhất thế giới và rất dễ bị “suy dinh dưỡng” nếu nguồn cá này cạn kiệt.
Tuy nhiên, nguồn cá biển Đông đang bị khai thác quá mức. Một nghiên cứu năm ngoái của hai tác giả trang The Conservation cho thấy có tới 55% số tàu thuyền đánh cá của thế giới tập trung hoạt động ở biển Đông, làm cho trữ lượng cá ở đây suy giảm khoảng 70-95% so với thập niên 1950. Trong vòng 30 năm qua, lượng cá đánh bắt được trong một ngày lao động cũng giảm đi một phần ba; ngư dân vất vả hơn trước rất nhiều nhưng lượng cá thu hoạch ngày càng giảm, trong đó tỷ lệ cá nhỏ tăng lên, cá lớn giảm xuống.
Đánh cá bằng thuốc nổ, bằng chất độc cyanua, cộng với các công trình bồi đắp đảo nhân tạo đang hủy diệt các rạn san hô – nơi sinh sống của cá. Rạn san hô ở biển Đông đang bị suy giảm với tốc độ 16% mỗi thập niên, theo The Conservation. Các chuyên gia bảo tồn dự tính, tới năm 2045, trữ lượng tất cả các loại cá ở biển Đông sẽ giảm thêm từ 9-58% nữa.
Tài nguyên ngày càng cạn kiệt thì vấn đề “ngư trường” nóng lên và tranh chấp ngư trường diễn ra khốc liệt không thua kém tranh chấp lãnh thổ. Để bắt được cá, ngư dân đã không ngại đi sâu vào vùng đặc quyền kinh tế (Exclusive Economic Zone – EEZ) của nước khác, bị bắt giữ, bị phạt tù, bị đánh đắm tàu… và dẫn tới những vụ xung đột giữa lực lượng kiểm ngư, cảnh sát biển của các nước, điển hình như vụ đối đầu giữa Indonesia và Trung Quốc gần đảo Natuna của Indonesia hồi tháng 3-2016.
Video đang HOT
Dân quân biển
Theo ghi nhận của The Conservation, Trung Quốc chiếm vị thế áp đảo về số lượng tàu đánh cá và lượng cá đánh bắt được ở biển Đông. Trang Bloomberg cho biết, từ năm 1979-2013, đội tàu đánh cá có động cơ của Trung Quốc đã tăng 12,5 lần, từ 55.225 chiếc lên 694.905 chiếc; số ngư dân trực tiếp đi biển cũng tăng từ 2,5 triệu lên 14 triệu người. Ngành thủy sản nói chung hiện mang về cho Trung Quốc mỗi năm 260 tỉ đô la Mỹ, bằng 3% tổng sản lượng GDP và tương đương với GDP của Việt Nam.
Sự phát triển chóng mặt của ngành đánh cá Trung Quốc được kích thích trước hết bởi nhu cầu: năm 2015, tiêu thụ hải sản của Trung Quốc chiếm 35% tổng lượng tiêu thụ toàn cầu và hải sản – một thời là món ăn xa xỉ, nay đã trở thành phổ biến cả ở những vùng nằm sâu trong nội địa Trung Quốc. Trong khi đó, đánh bắt quá mức và ô nhiễm môi trường đã làm cho nguồn cá ở Trung Quốc – đặc biệt là vùng sông Dương Tử và biển Hoa Đông – bị tận diệt, không còn cá nữa. Để sinh sống, ngư dân Trung Quốc phải đi ngày càng xa, có khi sang tận Nam Mỹ và châu Phi.
Nỗ lực “vươn khơi” của ngư dân lại được sự ủng hộ mạnh mẽ của chính quyền Bắc Kinh. Chính phủ Trung Quốc trợ cấp rất hào phóng để ngư dân đóng những con tàu to hơn, mạnh hơn, vươn xa hơn. Chỉ tính riêng năm 2013, Trung Quốc đã chi ra 6,5 tỉ đô la Mỹ để trợ cấp cho ngư dân, chủ yếu là trợ giá đóng tàu và trợ giá xăng dầu để ngư dân đi tới vùng biển xa, hoạt động dài ngày. Theo chủ trương của Bắc Kinh, tàu đánh cá không chỉ để đánh cá mà còn là những “cột mốc chủ quyền” di động trên biển và ngư dân là “dân quân biển” được huấn luyện quân sự, sẵn sàng đối đầu và chèn ép ngư dân các nước khác trong khu vực. Hải quân Trung Quốc công khai “khoe khoang” rằng họ đảm nhận việc cung cấp mọi thứ cho đội tàu đánh cá, từ xăng dầu giá rẻ, nước đá đến máy định vị GPS và thiết bị thông tin liên lạc. Mục đích của họ là để củng cố đòi hỏi của Trung Quốc về “quyền lịch sử” trên biển Đông trong phạm vị đường lưỡi bò đang có tranh chấp với các nước khác.
Trung Quốc có một lực lượng cảnh sát biển (Hải cảnh) cũng hùng hậu nhất khu vực. Cũng như hải quân, tàu hải cảnh Trung Quốc cũng cung cấp dịch vụ hậu cần (logistics), tiếp liệu (refuel) cho đội tàu đánh cá và sẵn sàng can thiệp nhanh chóng mỗi khi tàu cá Trung Quốc bị tàu cảnh sát biển các nước chặn bắt trên biển Đông.
Hôm 2-8, Tòa án tối cao Trung Quốc còn ngang ngược tuyên bố Trung Quốc có quyền bắt giữ và phạt tù tới một năm những người nước ngoài “xâm nhập bất hợp pháp vào vùng biển Trung Quốc” – là những vùng mà Trung Quốc đòi hỏi nhưng là vùng EEZ của các nước khác theo Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS). Ngay hôm sau, ngày 3-8, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Thường Vạn Toàn (Chang Wanquan) cảnh báo Trung Quốc cần chuẩn bị cho một cuộc “chiến tranh nhân dân trên biển” để “bảo vệ chủ quyền”.
Những động thái như vậy của Bắc Kinh đã khuyến khích ngư dân nước này thêm liều lĩnh xâm nhập bất hợp pháp sâu vào vùng EEZ của các nước khác, đánh bắt cá, khai thác hải sản, phá hoại môi trường và xung đột ngư trường giữa ngư dân Trung Quốc và các nước khác sẽ ngày càng gay gắt hơn.
Giải pháp nào?
Ngoài xung đột ngư trường, cung cách làm ăn của Trung Quốc còn làm cho giới chuyên gia môi trường lo ngại chẳng bao lâu nữa, biển Đông sẽ có kết cục như biển Hoa Đông: không còn cá để bắt nữa và ngành ngư nghiệp của các nước ven bờ biển Đông sẽ bị xóa sổ; các loài cá biển sẽ biến mất và người dân chỉ còn dựa vào nguồn cá nuôi ở các ao hồ.
Đã có nhiều tiếng nói quốc tế kêu gọi Trung Quốc ứng xử có trách nhiệm trên biển thông qua việc đào tạo luật pháp cho ngư dân, bãi bỏ các chương trình trợ giá nhiên liệu, phi quân sự hóa ngư dân, đặt hoạt động khai thác hải sản dưới sự quản lý của ngành ngư nghiệp và hải dương thay cho các tướng lãnh quân đội vốn không đến xỉa gì tới tính bền vững của môi trường… Tuy nhiên, cho đến nay Bắc Kinh tỏ ra không quan tâm đến những đề nghị này.
Nhiều người hy vọng phán quyết mới đây của Tòa trọng tài thường trực quốc tế La Hay, Hà Lan (tòa PCA) trong vụ Philippines kiện Trung Quốc có thể là căn cứ pháp lý quan trọng để giải quyết vấn đề ngư trường và môi trường biển Đông. Ngoài việc bác bỏ cái gọi là “quyền lịch sử” của Trung Quốc trên biển Đông, tòa PCA còn quyết định các đá, đảo nhân tạo mà Trung Quốc bồi đắp ở Trường Sa không có vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý như Trung Quốc đòi hỏi. Theo tinh thần phán quyết của PCA, vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc chỉ gồm vùng biển rộng 200 hải lý tính từ cực nam đảo Hải Nam chứ không phải là đường lưỡi bò 9 đoạn bao phủ 90% diện tích biển Đông như Trung Quốc đòi hỏi.
Tòa PCA còn lên án hoạt động xây dựng các đảo nhân tạo ở Trường Sa của Trung Quốc, cho đây là hành vi trái phép và gây tổn hại nghiêm trọng đến môi trường biển.
Từ phán quyết của PCA, một số tổ chức môi trường kêu gọi hình thành một cơ chế quản lý đa phương để thiết lập và vận hành khu bảo tồn biển (marine protected area), công viên hải dương quốc tế (international maritime peace park) bao trùm lên vùng biển quốc tế của biển Đông – nơi tàu thuyền của tất cả các nước đều tự do đi lại nhưng việc khai thác tài nguyên sẽ bị hạn chế để phục hồi hệ sinh thái rạn san hô, bảo vệ nguồn sinh vật biển quý giá. Ngư dân Trung Quốc được tự do đánh cá trong vùng EEZ của Trung Quốc 200 hải lý phía Nam đảo Hải Nam nhưng không được phép xâm nhập vào vùng EEZ của các nước khác.
Cơ chế quản lý này cần được tích hợp vào các hiệp định thương mại, chẳng hạn Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) mà Trung Quốc đang đàm phán với các nước châu Á khác, vào các hiệp định song phương của các nước ven biển Đông. Nếu sáng kiến này được thực thi thì nguồn cá biển Đông có hy vọng phục hồi, Trung Quốc không chỉ có “tiếng tốt” là công dân toàn cầu có trách nhiệm mà sản phẩm ngư nghiệp của nước này xuất khẩu sẽ được thị trường thế giới tiếp nhận rộng rãi hơn, thay vì bị người tiêu dùng quay lưng như hiện nay.
Có điều, cho đến nay, Trung Quốc chẳng những không tuân thủ mà còn phản bác dữ dội phán quyết của PCA, cả trong những tuyên bố trên báo chí, trong các hội nghị quốc tế lẫn trên thực tế ở biển Đông.
Cuộc tranh chấp ngư trường trên biển Đông vì vậy, sẽ còn kéo dài và cần nhiều nỗ lực của cộng đồng quốc tế.
Theo Thesaigontimes
Biển Đông có thể tránh khỏi chiến tranh bằng cách nào?
Bằng việc tuyên bố chủ quyền với hầu hết diện tích Biển Đông, thay vì đưa Trung Quốc phát triển theo con đường hòa thuận, chính sách của Bắc Kinh chỉ đang hướng thế giới tới bờ vực cuộc chiến.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình dường như có cùng quan điểm với các nhà chiến thuật Athen cách đây hơn 2000 năm, những người đã cảnh báo người dân Melos rằng kẻ mạnh làm những gì họ muốn và kẻ yếu làm những điều họ bị bắt buộc. Trung Quốc trắng trợn khẳng định rằng hầu như toàn bộ Biển Đông thuộc về Trung Quốc, ngay cả các đảo và rạn san hô gần Philippines và 5 quốc gia ven biển khác, dù các nước này cách Trung Quốc đại lục hàng trăm dặm. Thay vì đưa Trung Quốc phát triển theo con đường hòa thuận, chính sách của Bắc Kinh chỉ đang hướng thế giới tới bờ vực cuộc chiến. Bất chấp tất cả, Bắc Kinh bác bỏ thẩm quyền của Tòa Trọng tài thường trực (PCA) cũng như phán quyết của tòa rằng Trung Quốc không có chủ quyền lịch sử đối với vùng Biển Đông rộng lớn, ngăn chặn các tàu cá Philippines, phá hoại những rạn san hô dưới nước.
Những người hoài nghi về luật pháp quốc tế nói rằng, Trung Quốc cư xử không khác các cường quốc khác. Rất ít trường hợp nước lớn cúi đầu tuân thủ các phán quyết của tòa quốc tế. Khi Nicaragua đệ đơn kiện Mỹ vì khai thác vùng biển của họ, chính quyền tổng thống Reagan đã không chấp nhận thẩm quyền của tòa quốc tế và bác bỏ phán quyết chống lại Mỹ của tòa vào năm 1986.
The Diplomat cho rằng, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình dường như có cùng quan điểm với các nhà chiến thuật Athen. Ảnh: Reuters
Trong một trường hợp khác, chính quyền George W. Bush đã không ký vào quy chế thiết lập Tòa Hình sự quốc tế và bài trừ cơ quan này. Tương tự, với việc không có sự bào chữa hợp pháp, chính quyền Nixon đã ký với Moscow hiệp ước hạn chế phòng thủ tên lửa đạn đạo.
Trong khi Hiến chương Liên Hợp Quốc cấm các hành vi gây hấn, việc Trung Quốc chiếm đóng, quân sự hóa các đảo và rạn san hô ở Biển Đông không trực tiếp vi phạm quy tắc này. Mặc dù vậy, các hành động của Trung Quốc đã vi phạm các nguyên tắc mà Ngoại trưởng Mỹ Henry Stimson đề ra vào năm 1932. Đối phó với cuộc xâm lược Mãn Châu của Nhật Bản, Stimson tuyên bố Mỹ sẽ không công nhận bất cứ sự thay đổi chính trị hay lãnh thổ nào bằng sử dụng vũ lực. Dù không phải là thành viên của Hội Quốc Liên, một đại diện của Mỹ đã tham gia cuộc điều tra nhà nước bù nhìn của Nhật Bản ở Mãn Châu (Manchukuo) do tổ chức này tiến hành. Tổ chức này nói rằng sẽ không công nhận nhà nước mới Manchukuo với lý do sự thành lập ra nó đã vi phạm toàn vẹn lãnh thổ Trung Quốc, và do đó, Hiệp ước 9 cường quốc đã được nhiều quốc gia thành viên hưởng ứng.
Một số nhà phân tích cảnh báo rằng, Mỹ và Trung Quốc đã chuẩn bị cho một cuộc đụng độ. Thật vậy, nhà phân tích Michael Pillsbury lập luận rằng, giới tinh hoa Trung Quốc đang tham gia vào một cuộc chạy đua trăm năm để thay thế vị trí lãnh đạo toàn cầu của Mỹ. Hành động của Trung Quốc ở Biển Đông và những khu vực khác dường như để xác nhận sự kỳ vọng rằng những cường quốc đang lên sẽ thách thức trật tự và quyền lực thống trị hiện có của họ.
Tranh chấp Biển Đông đang tạo ra nguy cơ an ninh trong khu vực. Ảnh: Internet
Dự báo "không thể tránh khỏi" này chính là sai lầm và nguy hiểm. Như những diễn biến lịch sử gần đây, những cuộc cạnh tranh kiểu này không nhất thiết phải dẫn đến chiến tranh. Cuối thế kỷ 19, Vương quốc Anh đã không chiến đấu chống lại Mỹ. Điện Kremlin thách thức phương Tây trong suốt thời kỳ Chiến tranh lạnh nhưng kể cả khi Liên Xô tan rã cũng không có một tiếng súng nào. Có rất ít vấn đề trên thế giới mà không còn lựa chọn nào khác ngoài chiến tranh. Tuy nhiên, nỗ lực của Trung Quốc nhằm thôn tính Biển Đông chỉ có thể kích thích tham vọng của Bắc Kinh và khuyến khích những người Trung Quốc nghĩ rằng Mỹ đang trở thành một con hổ giấy.
Điều cần thiết là cần phải tái khẳng định rằng, Biển Đông là vùng biển trù phú, mang lại giá trị thương mại cao và cần được chia sẻ bởi tất cả các quốc gia ven biển. Việc phân chia, đàm phán này sẽ rất phức tạp, nhưng rõ ràng giải pháp này tốt hơn rất nhiều so với việc đụng độ vũ trang hoặc bất kỳ hình thức xung đột nào. Khẳng định tự do hàng hải trong vùng biển quốc tế sẽ bảo vệ lợi ích thiết yếu của tất cả các bên.
Việc giải quyết các xung đột bằng giải pháp hòa bình sẽ càng thuận lợi hơn nữa nếu Thượng viện Mỹ cho phép Washington tham gia Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển. Trong khi đó, chính quyền Obama nên nói rõ với Bắc Kinh về vai trò của học thuyết Stimson và yêu cầu tất cả các thành viên của Liên Hợp Quốc xác nhận lập trường này.Yêu cầu Trung Quốc tháo dỡ các cơ sở quân sự ở Biển Đông, Mỹ cũng nên đưa ra các đề xuất để ngăn chặn việc thu thập thông tin tình báo trong vùng biển này.
Theo Tin Mới
cảnh sát, Indonesia, hối lộ, nhặt rác, Seladi Việt Nam đã được thông báo về việc Tòa Trọng tài sẽ ra phán quyết cuối cùng vào ngày 12/7/2016. Việt Nam luôn theo dõi sát diễn biến vụ kiện và mong muốn Tòa Trọng tài sẽ đưa ra phán quyết công bằng, khách quan. Ngày 1/7/2016, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình đã trả lời câu hỏi...