Biển Đông là vấn đề cốt lõi trong quy hoạch ngoại giao, chiến lược Mỹ
Bài viết nhấn mạnh, Mỹ cần tăng cường quan hệ với Việt Nam, tăng cường can dự vấn đề Biển Đông, phát huy vai trò của Mỹ trước tham vọng của Trung Quốc.
Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh sắp tổ chức hội đàm với Ngoại trưởng Mỹ John Kerry
Tạp chí online “Yale Global” Mỹ ngày 25 tháng 9 đăng bài viết đanh gia cho rằng, Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Pham Binh Minh va Ngoại trưởng Mỹ John Kerry sẽ tổ chức hội đàm vào đầu tháng 10 năm 2014, hành vi hung hăng hăm dọa ở Biển Đông của Trung Quốc khi đó sẽ trở thành chủ đề chính của họ.
Vài tháng gần đây, giới tinh hoa chinh sach ngoai giao của Washington luôn thảo luận, can thiệp vào cuộc tranh chấp này phải chăng phù hợp với lợi ích của Mỹ. Đối với Mỹ, để cho Trung Quốc tự tung tự tác tùy tiện sẽ gây ra hậu quả chiến lược quá nghiêm trọng, vì vậy Mỹ vừa không thể bất chấp tất cả đối đầu với họ, cũng không thể hoàn toàn bàng quan với điều này.
Ông John Kerry và Pham Binh Minh nên tập trung tìm một con đường trung gian, vừa bảo vệ tính tự chủ chính sách của Mỹ vừa có thể duy trì cân bằng của khu vực này.
Bài viết cho rằng, Trung Quốc là một cương quôc đang trôi dây, hợp tác của Trung Quốc rất cần thiết trên các phương diện như ngăn chặn chủ nghĩa khủng bố, làm chậm lại biên đôi khi hâu va ngăn chặn phổ biến vũ khí hạt nhân. Tuy nhiên, Mỹ không thể bỏ qua ý đồ xây dựng bá quyền ở các vùng biển xung quanh của Trung Quốc.
Ở biển Hoa Đông và Biển Đông, Trung Quốc đã gây thách thức quyết liệt đối với quan niệm của Công ước Luật biển Liên hợp quốc về trật tự quốc tế, giải quyết tranh chấp lãnh thổ bằng các biện pháp đàm phán hoặc trọng tài, chứ không phải bằng vũ lực; nhưng, Trung Quốc tương đối thận trọng ở biển Hoa Đông, bởi vì, đối thủ của họ là Nhật Bản, đồng minh của Mỹ – là một đối thủ đáng gờm, trong khi đó, Trung Quốc tương đối “tự tin” (hung hăng hăm dọa) ở Biển Đông.
6 năm trước, Trung Quốc đã trình bày một bản đồ để minh họa cho yêu sách của họ về cái gọi là “chủ quyền không thể tranh cãi” ở khu vực bao quanh bởi một “đường chín đoạn” (vẽ bậy bạ) bao bọc 3,5 triệu km2.
Trung Quốc hạ đặt bất hợp pháp giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981 ở vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam từ đầu tháng 5 đến giữa tháng 7 năm 2014 (ảnh tư liệu)
Kể từ đó, Trung Quốc hàng năm đã gia tăng thách thức trên Biển Đông. Trung Quốc triển khai hàng trăm tàu đánh cá biển sâu và hàng chục tàu bảo vệ bờ biển (hải cảnh), Bắc Kinh đã thách thức chủ quyền của các nước láng giềng trong vùng đặc quyền kinh tế theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật biển.
Họ đã đuổi ngư dân Việt Nam ra khỏi ngư trường truyền thống, đã đoạt lấy nguồn lợi thủy sản ở bãi cạn Scarborough (ăn cướp) trong tay Manila, quấy rối hoạt động thăm dò dầu khí ngoài khơi ở bờ biển miền Trung của Việt Nam, đồng thời dựng cột mốc ở bãi ngầm James – nơi cách bờ biển Malaysia chỉ 50 dặm, trong khi cách đảo Hải Nam của Trung Quốc tới 2.200 dặm.
Năm nay, Trung Quốc thể hiện sự kiểm soát của họ bằng cách triển khai (bất hợp pháp) một giàn khoan dầu khí nước sâu và một hạm đội tàu hộ tống ở vùng biển gần bờ biển miền Trung (vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa) của Việt Nam, đồng thời điều một đội tàu nạo vét và có máy trộn xi măng đến lấn biển, xây đảo nhân tạo (bất hợp pháp) ở một số đá ngầm ở phía nam (thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam).
Bắc Kinh luôn không hề lay động trước sự khuyên bảo của dư luận bên ngoài, trong khi đó, thái độ cứng rắn của các quan chức ngoại giao Mỹ đã khiến cho Bắc Kinh cảm thấy tức giận. Từ Hillary Clinton đến John Kerry đều cho Bắc Kinh biết rằng, hồ sơ của Trung Quốc dựa trên “tuyên bố lịch sử” là không thể chấp nhận về mặt pháp lý.
Người Trung Quốc tỏ ra “tức giận”, họ coi nước khác đánh cá và khai thác dầu khí ở Biển Đông là đang “ăn cắp tài nguyên của Trung Quốc” (hoạt động này thuộc phạm vi chủ quyền theo luật pháp quốc tế của các nước ven Biển Đông như Việt Nam, Philippines…).
Trung Quốc hầu như không có ý định đưa yêu sách chủ quyền của họ ra trọng tài quốc tế để phán quyết. Trong vấn đề tiến hành đàm phán Bộ quy tắc ứng xử Biển Đông (COC) với các nước ASEAN, Trung Quốc cũng không quan tâm lắm.
Trung Quốc khủng bố Việt Nam ở vùng biển chủ quyền của Việt Nam (ảnh tư liệu)
Video đang HOT
Xung đột ở Biển Đông không phải không quan trọng, vì đây là tuyến đường hàng hải với gần một nửa thương mại của thế giới. Điều làm gia tăng lo ngại là, Bắc Kinh dùng chiến thuật hung hăng và gây sức ép hơn một cách liên tục, đã thách thức các quy tắc của trật tự quốc tế, điều này phản ánh thực sự bản chất của Bắc Kinh và là điều mà cộng đồng quốc tế phải đấu tranh trong thời gian tới.
Hành vi và thái độ của Trung Quốc đã làm cho Mỹ đưa đối đầu ở Biển Đông thành một vấn đề cốt lõi đáng lo ngại trong quy hoạch ngoại giao và chiến lược của Mỹ.
Ở Biển Đông giống như ở các nơi khác trên thế giới, sự tham gia của Mỹ là cần thiết nếu như tham vọng của Trung Quốc sẽ được đáp trả một cách có hiệu quả. Đàm phán tay đôi không có lợi cho củng cố vai trò trụ cột của ASEAN cũng không làm “cảm kích” Bắc Kinh.
Từ góc độ chiến thuật, hầu như biểu hiện của Mỹ ngoài phê phán hành vi khiêu khích của Trung Quốc và triển khai Hạm đội 7, không có sự lựa chọn khả thi nào khác. Mặt khác, Trung Quốc luôn khai thác các cơ hội trong khoảng trống đó. Trung Quốc dựa vào lực lượng bán quân sự, tàu hải cảnh và “tàu cá” yểm trợ để tiếp tục thúc đẩy tham vọng chủ quyền của họ, trong khi đó, Hải quân Trung Quốc đang thận trọng chờ đợi thời cơ.
Bắt chước chiến thuật của Bắc Kinh, Mỹ và các đồng minh, đối tác ở châu Á có thể tăng cường hợp tác giữa các lực lượng bảo vệ bờ biển, chủ yếu bao gồm tích cực triển khai các cuộc diễn tập đa phương trên biển. Viện trợ quân sự tăng cường khả năng kiểm soát biên giới biển cho các nước Đông Nam Á sẽ làm suy yếu khả năng áp dụng các hành động bất ngờ của Trung Quốc. Nếu sắp xếp khéo léo, những hoạt động này sẽ làm cho Trung Quốc buộc phải tính toán đến một loạt rủi ro trong đối đầu tàu và máy bay – Carlyle Thayer lập luận.
Trung Quốc xây đảo nhân tạo bất hợp pháp ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam (ảnh mạng Quan sát, TQ)
Washington còn phải tăng mạnh quan hệ gần gũi hơn với Việt Nam, bởi vì Việt Nam là quốc gia Đông Nam Á duy nhất có khả năng răn đe quân sự, đồng thời sẵn sàng đứng lên chống lại (tham vọng bành trướng “đường lưỡi bò” của) Trung Quốc dưới sự ủng hộ của Mỹ.
Hành động triển khai giàn khoan vào tháng 5 năm nay của Trung Quốc đã làm cho các nhà lãnh đạo Việt Nam lo ngại, làm cho Việt Nam không sẵn sàng tiếp tục phí công xoa dịu Bắc Kinh.
Bài viết cho rằng, Mỹ can thiệp mạnh mẽ hơn vào vấn đề Biển Đông sẽ tăng cường quan hệ ngoại giao giữa Mỹ với các nước Đông Nam Á. Trên phương diện này, Mỹ có thể túc đẩy Brunei, Malaysia, Việt Nam va Philippines giải quyết vấn đề đòi hỏi chủ quyền giữa họ. Mỹ có thể đưa ra sáng kiến, kéo nhà cầm quyền và doanh nghiệp Trung Quốc cùng thảo luận cách thức tiến hành quản lý đa phương đối với nguồn lợi hải sản đang cạn kiệt nhanh chóng và tiến hành cùng thăm dò, khai thác tài nguyên dầu khí dưới đáy biển.
Theo Giáo Dục
Việt Mỹ: củng cố lòng tin vì lợi ích chung
Lòng tin được củng cố và vì lợi ích chung là nhận định của một số chuyên gia, sau khi Mỹ cho phép bán các thiết bị quốc phòng, gồm vũ khí sát thương, vì mục đích an ninh hàng hải cho Việt Nam.
Chỉ huy tàu khu trục USS John S. McCain (Mỹ) giao lưu với đại diện Vùng 3 hải quân Việt Nam nhân dịp ghé thăm Đà Nẵng năm 2012 - Ảnh: Đăng Nam
Chỉ huy tàu khu trục USS John S. McCain (Mỹ) giao lưu với đại diện Vùng 3 hải quân Việt Nam nhân dịp ghé thăm Đà Nẵng năm 2012 - Ảnh: Đăng Nam Các quan chức Mỹ và giới chuyên gia nhận định việc Mỹ dỡ bỏ một phần lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam sẽ giúp cải thiện đáng kể quan hệ an ninh, quốc phòng và chính trị song phương.
Sáng 3-10 (giờ Việt Nam), người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ Jen Psaki thông báo trong cuộc hội đàm với Phó thủ tướng - Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry cho biết Mỹ "đã cho phép chuyển giao các thiết bị quốc phòng, bao gồm vũ khí sát thương, vì mục đích đảm bảo an ninh hàng hải cho Việt Nam".
Lệnh cấm bán các loại vũ khí sát thương khác, ví dụ như xe tăng, vẫn có hiệu lực cho đến khi Mỹ và Việt Nam giải quyết được những vướng mắc, bất đồng còn tồn đọng.
"Chính sách này hỗ trợ các nỗ lực của Việt Nam nhằm cải thiện năng lực giám sát và đảm bảo an ninh hàng hải" - người phát ngôn Psaki nhấn mạnh.
AFP dẫn lời một quan chức Bộ Ngoại giao Mỹ cho biết mọi loại khí tài có thể cung cấp cho Việt Nam đều mang tính chất phòng thủ. "Chúng tôi không đụng đến những hệ thống gây bất ổn. Các loại khí tài có thể bán cho Việt Nam sẽ không làm thay đổi thế cân bằng khu vực" - quan chức này quả quyết.
Đảm bảo an ninh hàng hải
"Việt Nam là đối tác quan trọng của Mỹ"
Bộ Ngoại giao Mỹ cho biết trong cuộc hội đàm với Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đánh giá sự phát triển của Việt Nam trong 20 năm qua là "phi thường". "Việt Nam đã trở thành một quốc gia hiện đại và là đối tác quan trọng của Mỹ" - ông Kerry nhấn mạnh. Trong cuộc hội đàm, ông Kerry và ông Phạm Bình Minh cũng kêu gọi hai nước sớm hoàn tất đàm phán Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và thảo luận các diễn biến trên biển Đông. Ông Kerry cho rằng các nước khu vực cần tuân thủ Tuyên bố về ứng xử của các bên trên biển Đông (DOC), không thực hiện các hành động có thể làm leo thang căng thẳng và gây bất ổn.
Trả lời phỏng vấn Tuổi Trẻ, giáo sư Carl Thayer, thuộc Học viện Quốc phòng Úc, nhận định tuyên bố của Mỹ đánh dấu một bước tiến lớn trong quan hệ quốc phòng Mỹ - Việt theo thỏa thuận đối tác toàn diện ký kết năm 2013.
"Việt Nam rất cần cải thiện năng lực giám sát và đảm bảo an ninh hàng hải, Mỹ có đầy đủ điều kiện để hỗ trợ Việt Nam" - giáo sư Thayer khẳng định.
Trên thực tế, lệnh cấm bán vũ khí sát thương luôn là một vướng mắc trong quan hệ hai nước nhiều năm qua.
"Đây là dấu hiệu tích cực cho thấy sự tin cậy lẫn nhau mang tầm chiến lược giữa Washington và Hà Nội đang ngày càng gia tăng. Sự kiện này không chỉ giúp tăng cường quan hệ an ninh và quốc phòng giữa Mỹ và Việt Nam, mà cả quan hệ chính trị hai nước" - giáo sư Thayer tin tưởng.
Reuters dẫn lời một quan chức Bộ Ngoại giao Mỹ cho rằng việc dỡ bỏ một phần lệnh cấm bán vũ khí sát thương "là bước đầu tiên cực kỳ quan trọng, giúp thúc đẩy quan hệ hợp tác trong tương lai".
Trong cuộc hội đàm với Phó thủ tướng - Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh, Ngoại trưởng Kerry giải thích Washington đưa ra quyết định trên vì Việt Nam đã có những "bước đi tích cực" trong việc cải thiện nhân quyền.
Theo tuyên bố của người phát ngôn Psaki, việc Mỹ dỡ bỏ một phần lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam hoàn toàn không nhằm mục đích "chống Trung Quốc" như giới truyền thông đánh giá.
Một quan chức Bộ Ngoại giao Mỹ đánh giá Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khu vực biển Đông thiếu năng lực đảm bảo an ninh hàng hải. "Đây là một nhu cầu đặc thù của khu vực. Chúng tôi muốn hỗ trợ Việt Nam tham gia các sáng kiến an ninh hàng hải trong khu vực" - quan chức này nhấn mạnh.
Lực lượng hải quân hai nước Việt - Mỹ cùng tham gia diễn tập chống cháy nổ trên tàu John. S. McCain tại cảng Tiên Sa Lớn, Đà Nẵng - Ảnh: Đăng Nam
Lực lượng hải quân hai nước Việt - Mỹ cùng tham gia diễn tập chống cháy nổ trên tàu John. S. McCain tại cảng Tiên Sa Lớn, Đà Nẵng - Ảnh: Đăng Nam Máy bay tuần tra và trực thăng
Bộ Ngoại giao Mỹ cho biết hiện Việt Nam vẫn chưa có yêu cầu cụ thể nào về việc mua khí tài từ Mỹ. Washington sẽ xem xét việc bán vũ khí cho Việt Nam theo nguyên tắc từng trường hợp cụ thể.
Trước đó, Reuters dẫn các nguồn tin từ Mỹ tiết lộ Washington có thể sẽ bán cho Việt Nam máy bay tuần tra hàng hải P-3 Orion của Hãng Lockheed Martin. Giáo sư Thayer cho biết P-3 Orion là loại máy bay tuần tra đáng tin cậy và thường xuyên được nâng cấp nên chất lượng rất cao.
"Hiện Mỹ đang thay thế máy bay P-3 Orion bằng loại P-8 Poseidon của Boeing, do đó mức giá P-3 Orion có thể sẽ giảm. Nhiều khả năng loại máy bay này khi bán sang Việt Nam sẽ không có vũ khí chống tàu và tàu ngầm. Tuy nhiên P-3 Orion sẽ cải thiện đáng kể năng lực tuần tra hàng hải của Việt Nam, bởi loại máy bay này có khả năng giám sát trên diện tích rộng hơn rất nhiều so với bất kỳ máy bay tuần tra nào khác Việt Nam đang sở hữu" - giáo sư Thayer cho biết.
Các quan chức Mỹ cũng cho biết Việt Nam có thể sẽ được mua các loại máy bay khác như P-8 của Boeing hay A-29 Super Tucano hoặc máy bay trực thăng để tuần tra hàng hải.
Ngoài ra, Việt Nam còn có thể mua một số tàu thuyền tuần tra. Việc mua các loại thiết bị nào sẽ phụ thuộc vào đối thoại giữa Mỹ và Việt Nam, cũng như việc Việt Nam đánh giá nhu cầu an ninh hàng hải của mình, đặc biệt là về lực lượng cảnh sát biển. Giáo sư Thayer cho rằng Việt Nam cũng cần quan tâm tới các hệ thống rađa giám sát hàng hải.
"Kể cả nếu Việt Nam không mua sắm các loại khí tài hiện đại thì mối quan hệ hợp tác quốc phòng Mỹ - Việt cũng sẽ mở rộng tới các lĩnh vực như bảo dưỡng thiết bị, cung cấp phụ tùng, đào tạo huấn luyện..." - giáo sư Thayer nhận định.
Ông tiết lộ theo một số nguồn tin riêng của ông từ Washington, Mỹ đã tăng ngân sách cho chương trình bán thiết bị quân sự nước ngoài (FMS), qua đó sẽ hỗ trợ Việt Nam mua sắm các thiết bị quốc phòng cần thiết.
Lòng tin và lợi ích chung
Đó là bình luận của thiếu tướng LÊ VĂN CƯƠNG - nguyên viện trưởng Viện chiến lược Bộ Công an - trước tuyên bố của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ về việc dỡ bỏ một phần lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam.
Ông Cương nói: Động thái của phía Hoa Kỳ cho chúng ta thấy ba điều:
Thứ nhất, trước đây Mỹ đưa ra lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam nói riêng và các nước khác nói chung phản ánh tình hình quan hệ của hai nước lúc đó, nhưng hiện nay rõ ràng Việt Nam không phải là kẻ thù của Mỹ và người Mỹ nhận thức rõ điều này.
Thứ hai, trong bối cảnh quốc tế hiện tại, Mỹ và Việt Nam dù chưa phải là đồng minh, liên minh nhưng giữa hai nước đã thiết lập quan hệ đối tác toàn diện, chỉ có những quốc gia như vậy thì Hoa Kỳ mới gỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương.
Thứ ba, nói gì thì nói, tôi nghĩ thông điệp gián tiếp ở đây là hai nước có mối thách thức chung, việc dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí mang lại lợi ích cho đôi bên.
Động thái trên cũng phản ánh hai điều rất rõ: Thứ nhất, lòng tin giữa đôi bên được củng cố. Thứ hai, hai bên tồn tại lợi ích chung.
* Có ý kiến cho rằng tại thời điểm này Việt Nam không có nhiều nhu cầu mua vũ khí sát thương của Mỹ. Tuyên bố gỡ bỏ một phần lệnh cấm sẽ mang ý nghĩa ngoại giao nhiều hơn, ông nghĩ sao?
- Người nào nghĩ như vậy thì chắc họ không nhận thức hết được những nguy cơ, đe dọa đối với an ninh quốc gia, thách thức đối với độc lập chủ quyền của Việt Nam.
Chúng ta rất cần vũ khí phòng thủ để bảo vệ chủ quyền quốc gia, vấn đề là chúng ta không có nhiều tiền để mua sắm những gì chúng ta muốn.
Hiện chúng ta có nhu cầu rất lớn trong việc thiết lập hệ thống phòng thủ trên biển với các trang thiết bị, vũ khí hiện đại, vì vậy tôi tin chắc Việt Nam sẽ ưu tiên mua sắm những gì phù hợp với điều kiện của mình.
Lâu nay, chúng ta mua nhiều vũ khí, trang bị của Nga, nhưng chắc chắn nếu đa dạng hóa được trang thiết bị, vũ khí từ cả Hoa Kỳ thì sẽ tốt hơn.
Vũ khí của Nga và của Mỹ có tính năng, tác dụng khác nhau, ưu thế khác nhau, nếu chúng ta có cả hai thì sẽ tốt hơn, đó là chưa kể trong một số trường hợp vũ khí sát thương trên biển của Mỹ còn có ưu thế hơn của Nga.
Theo Tuổi Trẻ
Mỹ chính thức chấp thuận bán vũ khí sát thương cho Việt Nam Bộ Ngoại giao Mỹ ngày 2.10 cho biết nước này đã gỡ bỏ một phần lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, ngay sau khi Ngoại trưởng Mỹ John Kerry gặp gỡ Phó thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh. Phó thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh và Ngoại trưởng Mỹ John Kerry...