Biển Đông : Cách ngăn chặn âm mưu dùng chiến thuật “sự đã rồi”
Tiến sĩ Ngô Di Lân là chuyên gia nghiên cứu tại đại học Brandeis về cách ứng xử của các nước trước chiến lược xâm chiếm lãnh thổ bằng chiến thuật “sự đã rồi” trong kỷ nguyên hiện đại.
Ông cho rằng cách ngăn chặn sử dụng chiến thuật này là chứng minh cho nước gây hấn và có ý đồ xâm lược rằng cái giá phải trả sẽ cao hơn và có rủi ro hơn rất nhiều so với dự tính trước đó.
Trong kỷ nguyên hiện đại, các nước thường sử dụng chiến thuật “sự đã rồi” nhằm thực hiện những mục tiêu xâm chiếm lãnh thổ thay vì dùng vũ lực.
Biển Đông đang trải qua một thời kỳ tương đối yên bình sau sự kiện khủng hoảng dàn khoan 981 năm 2014, nhưng chưa rõ liệu những tranh chấp có ổn định vào những năm sắp tới, dù vẫn đang có những nỗ lực để đàm phán xây dựng một Bộ Quy tắc Ứng xử trên Biển Đông. Sự kiện Nga thình lình sáp nhật Crimea đã nhắc nhở các nước rằng lãnh thổ của họ có thể nhanh chóng bị nắm lấy bởi những nước láng giềng có tham vọng mở rộng vùng lãnh thổ. Vì thế, những bên có chủ quyền về lãnh thổ trên Biển Đông như Việt Nam và Philippines cần phải chuẩn bị để ngăn chặn chiến thuật “sự đã rồi” có khả năng xảy ra, đặc biệt khi lịch sử hiện đại cho thấy các nước đang tăng cường sử dụng chiến thuật “sự đã rồi” hơn là việc dùng vũ lực để chinh phục vùng lãnh thổ mới.
Logic của chiến thuật “sự đã rồi”
Những nước tìm cách mở rộng những vùng lãnh thổ của mình có 2 sự lựa chọn: (1) sử dụng vũ lực, (2) cưỡng ép, (3): dùng chiến thuật “sự đã rồi”. Trong kịch bản sử dụng vũ lục, nước xâm lược đánh bại nước mục tiêu trên chiến trường và chiếm lãnh thổ. Bị đánh bại về mặt quân sự, đất nước mục tiêu không còn lựa chọn nào khác mà phải ưng thuận theo những đòi hỏi của bên thắng cuộc. Một lựa chọn khác, kẻ gây hấn sẽ ép buộc mục tiêu phải nhường lại một phần lãnh thổ. Đối mặt với áp lực của sự áp bức và trong một vài trường hợp có mối đe dọa chiến tranh, nước mục tiêu có thể quyết định tốt hơn là ưng thuận với những đòi hỏi của nước áp bức hơn là chấp nhận rủi ro leo thang chiến tranh.
Vấn đề với việc sử dụng vũ lực cưỡng chiếm lãnh thổ có thể gây ra thiệt hại rất nhiều về sinh mạng và của cải. Ngay cả những nạn nhân yếu đuối nhất cũng sẽ phản công nếu sự sống còn của họ bị đe dọa. Vì thế, một cuộc chiến ngắn có tính toán có thể nhanh chóng biến thành bãi lầy không thể thoát ra. Bởi vậy, cách dùng vũ lực là lựa chọn duy nhất khi kẻ xâm lược tìm cách chinh phục toàn bộ lãnh thổ của một nước khác. Và cách này không có nhiều ý nghĩa với việc theo đuổi những mục tiêu về lãnh thổ một cách hạn chế.
Cưỡng ép là chiến thuật ít tổn thất hơn dùng vũ lực nhưng kết quả của nó mơ hồ, đặc biệt khi dùng cách này để đòi hỏi vùng lãnh thổ liên quan. Hơn nữa, khi cưỡng ép mục tiêu, bên gây hấn chắc chắc sẽ làm lộ ra những ý định của mình, vì thế tạo cho mục tiêu cảnh báo sớm để chuẩn bị về mặt quân sự nhằm chống lại lợi thế của một đòn tấn công phủ đầu có thể xảy ra. Nói cách khác, cưỡng ép là một công cụ thiếu hiệu quả với việc chinh phục lãnh thổ và cũng giảm những lựa chọn có thể để kẻ gây hấn đạt được mục tiêu về lãnh thổ của mình.
Video đang HOT
Đó là lý do tại sao rất nhiều nước lựa chọn phương sách “sự đã rồi”, tức là chiếm vùng đất một cách hạn chế để giảm thiểu rủi ro leo thang xung đột. “Sự đã rồi” cho phép kẻ gây hấn đơn phương thay đổi hiện trạng lãnh thổ trước khi nước mục tiêu có thể tập trung thực hiện được sự đáp trả hiệu quả. Điều này đẩy mục tiêu vào trong một vị thế khó khăn khi phải lựa chọn 2 tình huống không dễ chịu: (1) Cố gắng để đánh bật kẻ xâm lược ra khỏi vùng lãnh thổ bị chiếm và có rủi ro leo thang xung đột hoặc (2) Chấp nhận bị mất vùng lãnh thổ. Mọi thời điểm nước gây hấn thực hiện phương sách “sự đã rồi”, họ đều “cược” rằng vùng lãnh thổ bị mất của nước mục tiêu vừa đủ nhỏ để nước mục tiêu sẽ không phản kháng khi có rủi ro sẽ lâm vào một cuộc xung đột lớn hơn. Đó là lý do tại sao phạm vi hạn chế và mang tính quyết định là bản chất của mọi chiến thuật “sự đã rồi”.
Trong khi mọi chiến thuật “sự đã rồi” chỉ dính líu trực tiếp tới 2 nước, nó cũng thường lôi kéo những bên thứ 3 dính líu tới sự việc. Việc Nga sáp nhập Crimea chỉ là một phần lãnh thổ bị thiệt hại cho Ukraine, nhưng Hoa Kỳ và các nước Châu Âu lại rất quan ngại về những mối liên quan lớn hơn của việc Nga sáp nhập lãnh thổ. Các nhà lãnh đạo Châu Âu có thể được tha thứ khi tin rằng Crimea chỉ là hành động đầu tiên và việc mở rộng sang phía tây của Nga sẽ không chỉ dừng tại Ukraine. Nhưng dù đó chỉ là việc Moscow lấy lại một phần lãnh thổ một cách hạn chế, rất nhiều nước có động cơ mạnh mẽ để đảo ngược “sự đã rồi” mà Moscow thực thi, bởi không làm được điều này sẽ khuyến khích nhiều nước tìm cách mở rộng vùng lãnh thổ của mình.
Nhưng “sự đã rồi” cũng là một chiến thuật được tạo ra để ngăn chặn sự can thiệp từ bên ngoài. Sử dụng vũ lực và sự cưỡng ép trong một khoảng thời gian dài hơn cho phép phe thứ 3 như Liên Hợp Quốc hay một cường quốc nào đó xen vào hiện trạng. Bằng cách thay đổi nhanh chóng thực tế, kẻ gây hấn có thể đạt được mục tiêu lãnh thổ trước khi bên thứ 3 nào có thể can thiệp. Khi đối diện với thực tế đã rồi, các bên thứ 3 chỉ có thể can thiệp bằng cách thử đảo ngược vùng lãnh thổ mà bên gây hấn đã đạt được, thường đòi hỏi phải sử dụng vũ lực. Và khi sử dụng vũ lực rủi ro và tốn kém, phe thứ 3 sẽ không muốn can thiệp sau khi “sự đã rồi” đã xảy ra.
Vì vậy chiến thuật “sự đã rồi” thường nhắm vào 2 mục tiêu cùng lúc: nạn nhân trực tiếp và bên thứ 3 có tiềm năng can thiệp vào ý đồ của kẻ gây hấn. Khi thực hiện chiến thuật “sự đã rồi”, bên gây hấn tìm cách để giảm thiểu 2 kiểu rủi ro: (1) rủi ro của một cuộc xung đột kéo dài [nếu mục tiêu quyết định đáp trả] và (2) rủi ro của một cuộc xung đột lớn hơn [nếu phe thứ 3 quyết định can thiệp].
Thực tế về cách đối phó với vùng lãnh thổ bị mất sau “sự đã rồi”
Khi giả sử rằng các nước luôn tìm cách để đòi lại vùng lãnh thổ đã mất trong dài hạn, các nước đối mặt với “sự đã rồi” có 2 lựa chọn cơ bản trong ngắn hạn: họ có thể nhanh chóng thử chiếm lại vùng lãnh thổ đã mất hoặc họ có thể chờ một thời điểm có nhiều cơ hội hơn để lấy lại lãnh thổ đã mất trong tương lai. Quyết định này, để đáp trả một cách tức thì hay trì hoãn, xoay quanh hai yếu tố mang tính quyết định: giá trị của vùng lãnh thổ tranh chấp và tính rõ ràng của “sự đã rồi”
Một vùng lãnh thổ tranh chấp có thể có giá trị cao với những lý do về mặt chiến lược hay biểu tượng. Một vùng lãnh thổ chiến lược thường có những lợi thế tức thì cho đất nước kiểm soát nó. Bán đảo Crimea và căn cứ hải quân Sevastopol và Eo biển Malacca là một trong những ví dụ về lãnh thổ chiến lược. Một vài vùng lãnh thổ quan trọng bởi chúng mang một biểu tượng quan trọng, như vùng đất được coi là thiêng liêng (như Núi Đền/Haram al-Sharif) hoặc bởi chúng tượng trưng cho sự đấu đá vì quyền lực lớn hơn (như Berlin trong Chiến Tranh Lạnh).
Những lãnh đạo của một đất nước đối mặt với việc mất đi vùng lãnh thổ có giá trị cao có động cơ mạnh mẽ để ngay lập lức đánh bật bên xâm lược, bởi mất đi vùng lãnh thổ sống còn có thể gây nguy hiểm cho an ninh quốc gia. Kể cả khi an ninh không ảnh hưởng, sự thất bại trong việc đáp trả ngay lập tức “sự đã rồi” có thể dẫn tới sự trừng phạt về chính trị khắt khe khi mọi người không thể dung thứ cho việc mất đi một lãnh thổ quan trọng mang tính biểu tượng. Đó là lý do tại sao Ukraine phải đáp trả ngay lập tức nhằm chiếm lại Crimea sau khi Nga sáp nhập mảnh đất này vào năm 2014.
Điều gì xảy ra khi “sự đã rồi” nhắm vào một lãnh thổ có rất ít giá trị thực chất? Trong những trường hợp như vậy, các nhà lãnh đạo có thể sẽ đáp trả ngay lập tức chỉ khi “sự đã rồi” hiển hiện rõ ràng với công chúng. Khi Argentina chiêm đảo Southern Thule vào năm 1976, chính phủ Callaghan [Anh quốc] đã mắt nhắm mắt mở với sự cố này và giữ bí mật với nghị viện và cả nhân dân trong 18 tháng trước khi “sự đã rồi” được công chúng biết tới. Ngược lại, khi Argentina chiếm đảo Falklands vào năm 1982, bà Thatcher đã ngay lập tức kháng nghị với Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc và đưa hải quân qua Đại Tây Dương để chiếm lại những hòn đảo này.
Cả quần đảo Falkland và Southern Thule đều không có nhiều giá trị đối với các nhà hoạch định chính sách Anh quốc. Điểm khác biệt mang tính quyết định ở đây là Argentina đã bí mật chiếm Southern Thule trong khi lại công khai đánh chiếm Falklands. Bởi vụ xâm lược Falklands là một sự kiện công khai, nó trực tiếp tấn công vào niềm tự hào quốc gia làm bẽ mặt nước Anh. Bà Thatcher không có cách nào khác là đáp trả ngay lập tức chiến lược “sự đã rồi” của Argentina. Bởi nếu không đáp trả bà sẽ phơi bày cho các đối thủ tấn công chính trị và làm cho chính phủ của mình sụp đổ.
Ngăn chặn âm mưu “sự đã rồi” trên Biển Đông
Mặc dù Trung Quốc không sử dụng quân đội để mở rộng sự kiểm soát lãnh thổ trên Biển Đông trong những năm gần đây nhưng cũng không có lý do gì để vừa lòng với vấn đề này. Sau cùng thì trong các đất nước đòi hỏi chủ quyền ở những vùng tranh chấp trên Biển Đông, Trung Quốc là đất nước duy nhất đã sử dụng vũ lực để chiếm các đảo thuộc quyền kiểm soát của những nước khác. Họ đã chiếm đống một cách phi pháp quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974.
Năm 1988, hải quân Trung Quốc đã nổ súng để chiếm quyền kiểm soát một loạt các đảo của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa. Tiếp theo là sự cố trên Đá Vành Khăn [thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam] năm 1995 và gần đây nhất là việc xâm chiếm bãi cạn Scarborough vào năm 2012. Tất cả những điều trên nhắc nhở chúng ta rằng Bắc Kinh sẽ lựa chọn sử dụng vũ lực khi họ không tìm thấy cách nào khác để ép buộc các nước khác phải chấp nhận yêu sách của mình trong khu vực tranh chấp.
Rủi ro của việc Trung Quốc thực hiện chiến thuật “sự đã rồi” trên Biển Đông rất cao bởi rất nhiều yếu tố mang tính lợi thế đối với họ. Với sự lệ thuộc về kinh tế bất đối xứng ở mức độ cao với Trung Quốc, các nước láng giềng như Philippines hay Việt Nam sẽ phải trả cái giá khổng lồ khi cố gắng lấy lại quyền kiểm soát các đảo mà Trung Quốc đã chiếm đóng. Hơn nữa, với cán cân sức mạnh nghiêng về phía Trung Quốc, các nước nhỏ sẽ không chọn phương sách sử dụng vũ lực để đẩy lùi đội quân xâm chiếm của Trung Quốc, vì e ngại sự đáp trả sẽ gây ra một cuộc xung đột lớn và gây tàn phá nhiều hơn.
Ở điểm này, Hoa Kỳ là cường quốc có năng lực nhất trong việc ngăn chặn cuộc phiêu lưu của Trung Quốc trên Biển Đông. Lý tưởng thì Hoa Kỳ sẽ tuyên bố rằng họ không dung thứ cho bất cứ nỗ lực nào giải quyết tranh chấp bằng vũ lực, giống như họ đã úp mở, đe dọa sẽ ngăn chặn một cuộc xâm lược tiềm tàng vào Đài Loan. Tuy nhiên, điều này sẽ không sớm xảy ra bởi hành vi của Hoa Kỳ cho thấy họ không có quyết tâm để thách thức trực tiếp Trung Quốc trên Biển Đông.
Hiện tại, cách tốt nhất để ngăn chặn Trung Quốc thực hiện chiến lược “sự đã rồi” là tìm cách khiến Bắc Kinh nhận thức được rằng họ không có khả năng chiếm được các đảo bằng cách thực hiện “sự đã rồi” một cách nhanh chóng và không đổ máu. Các nước ngày càng dựa vào chiến thuật “sự đã rồi” hơn là sử dụng chiến tranh hay áp lực bởi họ tin rằng đó là cách thức ít tốn kém, ít rủi ro để có thể đạt được các mục tiêu về lãnh thổ. Vì vậy, “sự đã rồi” sẽ trở nên ít hấp dẫn hơn nếu những dự tính như vậy được cho thấy là một chiến thuật thực ra chứa nhiều rủi ro và tổn thất hơn là trước đó họ tin tưởng.
Vì vậy, những nước phải chịu rủi ro mất đi những vùng lãnh thổ của mình qua “sự đã rồi” phải chứng minh với những kẻ gây hấn tiềm năng rằng họ sẽ dứt khoát nỗ lực để chiếm lại những lãnh thổ bị xâm chiếm mà không cần để ý tới giá trị thực chất của những vùng lãnh thổ này. Để sự ngăn chặn đe dọa này đáng tin cậy, các nhà lãnh đạo phải hi sinh sự linh hoạt trong chính sách, bắt tay vào để khiến công luận nhận thức được về những vùng lãnh thổ tranh chấp và từ đó đảm bảo sự phản ứng mạnh mẽ của người dân trước những vùng lãnh thổ bị xâm lược.
Các nước cũng nên đưa quân đội tới những vùng lãnh thổ gây ảnh hưởng và là yếu điểm của “sự đã rồi”. Trong trường hợp bất đắc dĩ, họ phải thuyết phục quần chúng tới ở ở những hòn đảo chưa từng có người sinh sống được bằng cách cung cấp những nhu yếu phẩm cần thiết để tạo dựng một cuộc sống bình thường trên những hòn đảo đó. Những phương pháp này củng cố sự tin cậy khi ngăn chặn mối đe dọa bởi nó loại bỏ việc chiếm các phần lãnh thổ một cách bí mật. Hơn nữa, nó đảm bảo rằng những lãnh đạo của đất nước mục tiêu sẽ đáp trả lại những thách thức về lãnh thổ hay phải chịu rủi ro về việc mất đi quyền lực trong nước.
Theo viettimes
Tàu chiến Mỹ đi sát bãi cạn Scarborough, thách thức Trung Quốc
Quân đội Mỹ cho biết tàu chiến nước này đi qua khu vực bãi cạn Scarborough mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông.
Theo Reuters, động thái này có thể khiến Bắc Kinh nổi giận trong bối cảnh Mỹ và Trung Quốc đang có những căng thẳng thương mại.
Biển Đông là một trong những điểm nóng ngày càng tăng nhiệt trong mối quan hệ giữa Washington và Bắc Kinh, bên cạnh cuộc chiến thương mại, các lệnh trừng phạt của Mỹ và vấn đề Đài Loan.
Tàu khu trục USS Preble. Ảnh: Reuters.
Một phát ngôn viên lực lượng Mỹ nói với Reuters rằng con tàu thực hiện nhiệm vụ này là tàu khu trục Preble.
"Preble di chuyển trong phạm vi 12 hải lý của bãi cạn Scarborough để thách thức các tuyên bố hàng hải quá mức và bảo vệ quyền tiếp cận các tuyến đường thủy theo luật pháp quốc tế", Trung tá Clay Doss, người phát ngôn Hạm đội 7 quân đội Mỹ, cho biết.
Theo Zing
Đài Loan tập trận bắn đạn thật rầm rộ ngăn TQ "chiếm đảo" Lực lượng vũ trang Đài Loan đã huy động xe tăng, rocket, trực thăng trong cuộc diễn tập ngăn "đối phương chiếm đảo" đầu tiên trong năm 2019. Đài Loan tập trận rầm rộ kể từ ngày 17.1. Theo CNN, cuộc tập trận diễn ra ở khu vực Kaoshung, trong đó Đài Loan gấp rút đưa các khí tài quân sự đến một...