Bí mật trong ngôi mộ cổ có nhiều truyền thuyết thần bí nhất Trung Quốc
Bí mật trong ngôi mộ đại hoạn quan Lý Liên Anh, Trung Quốc kèm theo nhiều truyền thuyết thần bí.
Lý Liên Anh (sinh ngày 12 tháng 11 năm 1848 – mất ngày 04 tháng 3 năm 1911) là một thái giám trong triều đình nhà Thanh thế kỷ XIX, là người thân cận và tâm phúc của Từ Hy Thái hậu. Ông là Đại tổng quản hay Tổng quản thái giám trong thời kỳ Từ Hy còn đương nhiệm và là nhân vật có thực quyền thậm chí lấn át cả vua và đã làm loạn cả hậu cung nhà Thanh. Chỉ sau khi Từ Hy qua đời, Lý Liên Anh mới rời chốn hoàng cung sống mai danh ẩn tích và qua đời một cách lặng lẽ.
Lý Liên Anh tên thật là Lý Tiến Hỉ, từ năm 9 tuổi đã nhập cung làm thái giám và phụng sự hậu cung Thanh triều suốt 4 đời hoàng đế Hàm Phong, Đồng Trị, Quang Tự và Tuyên Thống nhà Thanh. Ông ta vốn là người thông minh, lại được Từ Hy thái hậu nhất mực tin tưởng và sủng ái, vì thế ông ta được đặc cách làm quan nhị phẩm. Từ thân phận một tên nô tài thấp hèn, Lý Liên Anh đã leo lên đỉnh cao danh vọng.
Chân dung đại thái giám nổi tiếng nhà Thanh Lý Liên Anh.
Liên quan đến nhân vật Lý Liên Anh, nhân gian còn lưu truyền rất nhiều truyền thuyết với nhiều màu sắc thần bí khác nhau. Trong đó có một bí mật kinh ngạc vẫn chưa có lời giải trong quan tài của viên đại hoạn quan này.
Sự thật vụ khai quật mộ thái giám hơn 40 năm trước
Tại một nơi góc khuất hẻo lánh phía Tây Nam trong khuôn viên trường “Lục nhất” xưa ở Bắc Kinh có một ngôi mộ cổ. Ít ai nơi đây từng có một ngôi mộ với quy mô hoành tráng như vậy.
Chủ nhân của ngôi mộ đó có thân phận đặc biệt. Tuy không phải hoàng thân quốc thích, nhưng cũng là bậc giàu có đệ nhất thiên hạ. Tuy không phải vương hầu tướng quân, nhưng địa vị vô cùng hiển hách. Đó chính là đại thái giám nổi tiếng Lý Liên Anh triều Thanh.
Phần mộ của Lý Liên Anh tọa lạc trên mảnh đất rộng khoảng hơn 20 mẫu kéo dài từ Nam sang Bắc. Điểm cực Bắc là cầu Kim Thủy, từ cầu sang hướng Bắc có một nhà bia đầy khí thế được xây bằng đá ngọc trắng thời Hán.
Đầu mùa hè năm 1966, một đội khoảng 5,6 người bắt đầu tiến hành khai quật mộ của Lý Liên Anh.
Ngôi mộ lúc này chỉ còn là một đám đất có hình lô cốt nằm tại một góc hoang vu tại khu Hải Điện, Bắc Kinh. Ròng rã hơn một tuần trời đào liên tục nhưng dường như cả ngôi mộ không hề bị ảnh hưởng gì.
Mộ được xây bằng hỗn hợp đất trộn lòng trắng trứng gà, cháo gạo nếp, vôi và đất bazan. Sau hơn một tuần cuối cùng cũng mở được một cái hốc nhỏ trên nóc mộ lộ ra một tầng đá hoa cương. Sau vài nhát búa lớp đá hoa cương vẫn trơ trơ. Mọi người đều cảm thấy rất tuyệt vọng.
Đúng lúc này có một cụ già bước đến, sau khi biết mọi người đang khai quật mộ Lý Liên Anh thì cụ già cảm thấy vô cùng kinh ngạc và nói rằng: “Đừng đào thế vô ích, lại đây ta chỉ cho cách”.
Cụ già chỉ về hướng bia mộ và nói hãy đào từ đây, phía dưới chính là địa cung, phía sau sẽ là đường chính, lúc nhỏ ta thường chui xuống đó chơi.
“Kim tỉnh ngọc táng” cao quý
Lý Liên Anh luôn cận kề bên Từ Hi Thái Hậu.
Nơi cụ già chỉ gần hai tấm bia đá lớn trước mộ. Sau lớp đất hỗn hợp là một tầng đá răm. Sau khi dọn sạch lớp đá răm sâu gần hai mét có một tảng đá dài màu xanh hiện ra.
Video đang HOT
Trên tảng đá có một cái hốc hình tròn, đây chính là nơi âm dương thông nhau. Tiền thất của ngôi mộ là một khoảnh rộng khoảng 3m hình vuông và được cắt bằng đá ngọc trắng thời Hán. Hai bức tường phía Đông Tây đều được khắc họa những bức tranh vô cùng tinh xảo. Hai bên Nam Bắc đều có cửa. Cửa phía Nam nối với mộ đạo, phía Bắc thông với mộ thất.
Phía sau cửa có một quả cầu đá chặn bên dưới cửa chính. Có một rãnh nhỏ chạy dọc ở dưới, khi cửa đóng lại quả cầu sẽ tự động lăn vào rãnh giống như cái chốt chặn lại nên ở ngoài không thể đẩy vào được.
Quan tài của Lý Liên Anh màu đỏ tím phía đầu vẽ kim hoa vô cùng tinh xảo đã rơi ra khỏi vị trí trên giường ngọc. Phía trên giường đặt quan tài được đúc bằng đá bạch ngọc, trên đục một lỗ tròn, bên trong treo một hầu bao đựng ngọc và một ít tiền bằng đồng. Điều này chứng tỏ Lý Liên Anh được mai táng bằng hình thức “Kim tỉnh ngọc táng” – một hình thức mai táng cao quý thời bấy giờ.
Quan sát xung quanh, trên tường của hầm mộ có rất nhiều những dấu tích màu vàng. Đây có lẽ là vết mỗi khi mộ bị ngập, nước rút để lại vết, và cũng có thể do ngập nước nên quan tài đã bị xê dịch ra khỏi vị trí ban đầu.
Khi bật nắp quan tài, một hình người được xếp nằm ngay ngắn. Có hình đầu, cổ, chân tay và được đắp chăn. Trương Quảng Tri, một giáo viên trường “Lục nhất” là người trực tiếp tham gia khai quật từ đầu đến cuối nhớ lại:
Sau khi lật lớp chăn thì có một lớp bùn đen ở dưới. Khi xem kỹ thì đây thực chất là do lớp mùn do chăn mủn ra. Khi đưa tay vào áo quan để di chuyển thi thể ra bên ngoài thì chiếc giày bên phải tuột ra. Nhìn vào bên trong giống như bông gòn màu đen. Lật tiếp lớp quần áo rất dày với lớp ngoài cùng là một áo khoác dài chưa hề mục nát. Nhưng điều đáng kinh ngạc là không hề tìm thấy xương cốt mà toàn bộ là đồ gần giống bông gòn đen.
Khi xem đến phần eo của cơ thể thì tìm thấy một chuỗi tràng hạt và hơn 50 món kim ngân châu bảo được tùy táng. Phần đầu quan tài tìm thấy một hộp xương sọ với xương gò má cao, hàm răng vẩu, bên ngoài còn bọc một lớp da.
Nhìn hiện trạng quan tài và thi thể bên trong vẫn còn trong tình trạng nguyên vẹn hoàn hảo, điều này chứng tỏ chưa có ai từng đến đây. Một câu hỏi lớn được đặt ra tại sao trong quan tài chỉ có phần xương sọ mà không tìm thấy xương cốt phần thân và Lý Liên Anh đã chết vì nguyên nhân gì?
Bí ẩn khó giải về cái chết của Lý Liên Anh
Cùng lật lại lịch sử, tháng 10 năm 1908, Từ Hy thái hậu qua đời. Trong “Lý thị gia phả” có ghi rằng “Bách nhật hiếu mãn, xuất cung dưỡng lão” (tức đợi sau 100 ngày mất của Từ Hy thì Lý Liên Anh đã xuất cung về quê dưỡng lão).
Sau khi trở về nhà riêng ở ngõ Miên Hoa, Bắc Kinh, Lý Liên Anh cả ngày chỉ ăn chay, niệm Phật không đi ra ngoài. Ba năm sau, ông ta cũng đi theo hầu Từ Hy.
Theo hậu duệ của Lý gia, Lý thái giám chết vì bệnh kiết lỵ. Sau khi mắc bệnh 3, 4 hôm không chịu chữa trị thì qua đời. Nhưng tìm trong hồ sơ và mộ chí minh của triều Thanh thì chỉ thấy ghi vẻn vẹn có một chữ “chết” mà không rõ nguyên nhân.
Nếu căn cứ theo việc khai quật mộ thì rất có thể Lý Liên Anh đã bị giết, vậy ai đã giết ông ta và mục đích gì, có ba cách giải thích sau:
Thứ nhất do bị giết. Vì trong cuộc chiến giữa Từ Hy và hoàng đế Quang Tự ông ta đã ủng hộ thái hậu và đả kích hoàng đế. Nhưng quan điểm này đã vấp phải sự phản đối của nhiều học giả.
Lý Liên Anh chưa từng tham gia vào cuộc chiến trong triều đình. Chính vì thế ông ta không thể đắc tội với họ được. Hơn nữa, sau khi Từ Hy chết ông ta đã xuất cung ba năm về ở ẩn không còn ảnh hưởng gì đến triều đình nên có giết ông ta cũng không mang lại lợi ích gì.
Thứ hai là do Giang Triều Tông và Tiểu Đức Trương giết. Cách giải thích này chủ yếu là quan điểm của cá nhân Nhan Nghi Dân. Thậm chí trong văn chương của mình, ông đã dẫn ra chi tiết rằng khi Giang Triều Tông nhậm chức đề đốc Cửu Môn đã mời Lý Liên Anh dùng cơm, sau đó phái người giết chết ông ta ở Hậu Hải, Bắc Kinh.
Những người ủng hộ quan điểm này cho rằng Giang Triều Tông là thân tín của Viên Thế Khải. Lý Liên Anh từng đắc tội với Viên Thế Khải nên có thể ông ta đã hạ lệnh cho thân tín giết Lý thái giám.
Còn Tiểu Đức Trương vốn là hậu nhiệm của Lý Liên Anh, vì tranh giành gia sản mà nảy sinh động cơ giết ông ta. Nhưng cách giải thích này cũng bị các học giả phản đối vì năm thứ hai Tuyên Thống Giang Triều Tông đang nhậm chức tổng binh ở thị trấn Hán Trung, Thiểm Tây.
Mãi đến năm 1912 mới quay về Bắc Kinh nhậm chức tư lệnh cảnh vệ Bắc Kinh chính phủ Bắc Dương. Việc ông ta ở xa hàng nghìn dặm không thể nào lại mời Lý Liên Anh ăn cơm để mưu sát được. Hơn nữa về việc công, giữa hai người không hề có xung đột gì quá lớn nên động cơ giết người để trả thù là không tồn tại.
Thứ ba, trên đường đi đòi nợ ở Sơn Đông, Lý Liên Anh đã bị thổ phỉ giết chết. Về quan điểm này cũng có rất nhiều chuyên gia cảm thấy nghi ngờ.
Với địa vị và sự giàu có của Lý Liên Anh thì tại sao ông ta lại phải đích thân đi đòi nợ? Những người ủng hộ quan điểm này thì giải thích rằng, Lý Liên Anh có người cháu gái gả cho một gia đình ở huyện Vô Lệ, Sơn Đông. Ông ta đã từng đi thăm cháu gái, tiện đường đi vãn cảnh núi Thái Sơn. Khi đi đến nơi tiếp giáp giữa Sơn Đông và Hà Bắc thì bị giết. Hai tên thị vệ theo hầu thì sợ hãi tột cùng chỉ kịp nhặt được thủ cấp của Lý Liên Anh tháo chạy về kinh.
Nhưng đây chỉ là những tương truyền trong dân gian còn trong sử sách thì ghi chép không rõ ràng. Hơn nữa sự thiếu logic trong những cách mà người đời nói về Lý Liên Anh chỉ làm cho cái chết của ông ta thêm muôn màu kì bí.
Cho dù là cách giải thích nào thì việc thi thể không nguyên vẹn trong quan tài của Lý Liên Anh là sự thật. Bí mật về nguyên nhân cái chết của ông ta có thể một ngày nào đó sẽ được tìm ra, nhưng cũng có thể mãi mãi chìm trong bóng đêm của quá khứ lịch sử.
Rợn người với độc chiêu ngăn phi tần 'vượt rào' của Hoàng đế Trung Hoa
Để bảo vệ sự trong sạch của hậu cung, các Hoàng đế đã nghĩ ra đủ mọi cách để ngăn chặn những chuyện "vượt rào", dâm loạn của các phi tần.
Chốn hậu cung của Hoàng đế chính là một "nữ nhi quốc" thực thụ. Ngoại trừ Hoàng đế, tất cả những người sinh sống trong hậu cung đều là phụ nữ, hoặc chí ít là những người không phải đàn ông.
Trong chốn hậu cung, Hoàng đế có cả ngàn mỹ nữ, một người thông gian bị bắt, rồi xử chém thì ngay lập tức một người mới sẽ được bổ sung. Điều không thiếu nhất trong hậu cung chính là mỹ nữ. Tuy nhiên, đối với Hoàng đế, việc giữ được sự trinh tiết, trong trắng của các phi tần, mỹ nữ chốn hậu cung là điều hết sức quan trọng, nó ảnh hưởng đến tôn nghiêm của bậc Đế vương.
Dù có hàng ngàn mỹ nữ không được sủng hạnh nhưng Hoàng đế vẫn muốn họ phải giữ gìn trinh tiết với mình (Ảnh minh họa).
Bởi lẽ, nếu ngồi trên ngai vàng, nghĩa là có quyền lực, ông ta sẽ có tất cả. Nhưng cuộc đời mỗi con người lại có hạn, nên dù muốn hay không, mỗi Hoàng đế cũng chỉ có thể bám trụ trên ngai vàng vài chục năm, sau đó buộc phải nhường lại cho người kế nhiệm.
Thành ra, việc Hoàng đế lo lắng nhất chính là truyền ngôi "nhầm" cho người ngoài. Vì vậy, để trừ mối họa từ trong nước, các vị Hoàng đế buộc phải tìm mọi cách ngăn chặn tình trạng các phi tần tìm cách "cắm sừng" mình.
Ngay từ thời xa xưa, người ta đã bằng nhiều cách "vô hiệu hóa" sinh thực khí của những người hầu là nam giới trong hậu cung, mà lâu nay người ta goi là "thái giám".
Theo sử sách ghi chép thì thái giám là chế độ có từ thời Tây Chu, nghĩa là thế kỷ thứ 11 trước Công nguyên. Đây có thể nói là một đại phát minh của đàn ông Trung Quốc cổ đại và cũng là một chuyện kỳ quặc trong tiến trình phát triển của loài người.
Bằng việc cắt bỏ bộ phận sinh dục của nam giới, người Trung Quốc đã lần đầu tiên tạo nên giới tính thứ ba- không phải nam, cũng chẳng phải nữ. Tuy nhiên, vào thời bấy giờ, người ta không hề coi đây là một chuyện gì quá kỳ quặc, nếu không muốn nói là hoàn toàn bình thường.
Trong hậu cung Trung Quốc xưa, người ta có rất nhiều cách gọi khác nhau đối với những nam người hầu bị cắt bỏ bộ phận sinh dục, từ yêm nhân, thị nhân, lão công, trung quan, hoạn quan, vô căn nhân,...Tuy nhiên, có lẽ lưu hành thông dụng nhất chính là thái giám. Chức quan này chính là phát kiến của một ông vua đời Đường tên là Lý Trị.
Lúc bấy giờ khi Lý Trị đổi Điện Trung Tỉnh trong hậu cung thành Trung Ngự Phủ, đã phong cho các hoạn quan chức quan có tên gọi hẳn hoi là thái giám và thiếu giam. Hai chữ thái giám dùng để chỉ các hoạn quan phục vụ trong hậu cung bắt đầu sinh ra từ đó.
Thái giám Trung Quốc.
Việc cắt bỏ bộ phận sinh dục ở người đàn ông trước khi đưa vào cung để hầu hạ Hoàng đế và các phi tần, thực tế là cách mà các Hoàng đế dùng để ngăn chặn sự quấy nhiễu của các "thế lực bên ngoài" đối với các phi tần, cũng là cách để ngăn chặn những phi tần lăng loàn, tìm cách "vượt rào", có ý định "cắm sừng" Hoàng đế.
Không chỉ bị "tịnh thân", thái giám trong hậu cung cũng chịu sự quản lý vô cùng nghiêm ngặt. Trong Giao Thái Cung, Nội Vụ Phủ, Thận Hình Ti của vua Thuận Trị còn treo một tấm bảng sắt ghi rõ thái giám không được can thiệp vào việc triều chính cũng không được rời khỏi kinh thành. Dưới triều Thanh, phẩm cấp của hoạn quan không được cao quá tứ phẩm (Thanh triều chia phẩm cấp quan lại làm 8 phẩm, đứng đầu là nhất phẩm).
Thực chất, tấm bảng sắt bên ngoài là đe dọa thái giám không được tham gia vào chuyện chính sự song ngầm ẩn bên trong là cảnh cáo không được tìm cách qua lại với các cung phi trong hậu cung.
Trên thực tế, những người làm ô uế hậu cung của Hoàng đế không phải ai khác mà chính là các thái giám mà Hoàng đế nghĩ rằng họ "vô hại".
Bởi lẽ, dù đã cắt bỏ bộ phận sinh dục nhưng điều đó không có nghĩa họ không có những biện pháp thay thế. Câu chuyện về thái giám Lưu Phác dưới thời Hoàng đế Minh Vũ Tông Chu Hậu Chiếu là một ví dụ.
Lưu Phác đã sử dụng một bộ phận sinh dục đàn ông giả để "ân ái" với một cung nữ. Tuy nhiên, do dùng lực quá mạnh đã khiến cô cung nữ này chết ngay trên giường. Điều này được ghi chép rất rõ trong sử sách triều Minh chứ hoàn toàn không phải là chuyện bịa đặt trong dân gian.
Không chỉ vậy, câu chuyện về Phùng Hoàng hậu (vợ vua Hiếu Văn Đế nhà Bắc Ngụy) thông dâm với một tên thái giám là Cao Bồ Tát cũng là một ví dụ điển hình khiến các bậc Đế vương sau này cảnh giác hơn với cả người hầu hạ "không phải nam, cũng không phải nữ" ngay bên cạnh mình.
Rút từ triều Minh và cũng là vì lời dạy bảo của Thanh Thái Tổ Nỗ Nhĩ Cáp Xích, số lượng thái giám trong hậu cung triều Thanh ít hơn rất nhiều so với triều nhà Minh.
Theo ghi chép của sử sách, số lượng thái giám vào thời điểm cao nhất chỉ vào khoảng 3.600 người. Trong khi đó, trong hậu cung triều Minh, số thái giám có khi lên tới hàng vạn người. Thực tế, số lượng thái giám trong triều Thanh còn ít hơn cả con số được ghi nói trên.
Có ghi chép nói rằng, vua Càn Long chỉ có khoảng 3.000 thái giám, Gia Khánh ít hơn, chỉ có 2.638 thái giám, Quang Tự chỉ còn 1.989 người. Tới thời Tuyên Thống Hoàng đế thì con số này chỉ chưa tới 1.000 người.
Mặc dù vậy, thế lực hoạn quan trong hậu cung triều Thanh không phải là đã hoàn toàn bị khống chế, đặc biệt là trong những năm Từ Hy Thái Hậu buông rèm nhiếp chính. An Đức Hải, Lý Liên Anh, Tiểu Đức Trương đều được phong hàm nhị phẩm.
Nói tới chuyện An Đức Hải, Lý Liên Anh, Tiểu Đức Trương, có lẽ không thể không nói tới chuyện "vượt rào" của bà thái hậu lừng danh này.
Theo sử sách ghi chép, Từ Hy Thái hậu vốn là phi tử của Hoàng đế Hàm Phong - Lan Quý nhân, sau đó được phong làm Quý phi. Sau khi Hàm Phong qua đời, con trai của Lan Quý nhân, Tải Thuần lên ngôi Hoàng đế, tức là Hoàng đế Thuận Trị. Khi đó, Lan Quý nhân mới 28 tuổi, đang là độ tuổi sức sống tràn trề ở một người phụ nữ, phải sống một mình chốn thâm cung, lại luôn phải tỏ ra xứng đáng là bậc mẫu nghi thiên hạ, Từ Hy có chút khó kìm nén những nhu cầu bản năng của mình.
Bà ta bắt đầu nghĩ tới những thái giám ở xung quanh mình, bởi dù sao họ cũng vốn là đàn ông. Chính vì lý do này mà An Đức Hải, Lý Liên Anh và Tiểu Đức Trương mới có cơ hội đắc sủng.
Trong số các thái giám ở hậu cung, những kẻ mặt đẹp, thân hình lại cao lớn không hề ít, vì sao Từ Hy lại chọn mỗi An Đức Hải và Lý Liên Anh. Liên quan tới chuyện này có rất nhiều giả thuyết khác nhau.
Tuy nhiên, giả thuyết được nhiều người nhắc tới nhất chính là mặc dù An Đức Hải và Lý Liên Anh là hoạn quan, tuy nhiên, họ là những người "tịnh thân" không sạch, nghĩa là vẫn còn dư lại "một chút đàn ông" ở họ. Chính vì thế, An Đức Hải và Lý Liên Anh mới trở thành "sủng nam" của Từ Hy Thái hậu.
Theo lời kể của các cung nữ trong cung, bình thường Từ Hy và An Đức Hải ra vào hậu cung giống như hai vợ chồng. Khi hai người đi tản bộ, những người khác tuyệt đối không được đi theo, ngay cả tới gần cũng không được phép.
Việc An Đức Hải bị tuần phủ Sơn Đông chém đầu cũng chỉ vì liên quan tới mối quan hệ bất chính với Từ Hy Thái hậu.
Sau khi An Đức Hải chết, Từ Hy còn đang buồn phiền thì Lý Liên Anh xuất hiện. Không chỉ có thái giám, người ta còn nói rằng, vào năm Quang Tự thứ 8, một thương nhân họ Bạch bán đồ cổ ở Bắc Kinh đã được Từ Hy để mắt tới.
Từ Hy giữ họ Bạch lại trong hậu cung của mình hơn 1 tháng rồi mới thả ra. Người ta còn nói, cuộc tình kéo dài một tháng ấy khiến Từ Hy mang thai. Từ An Thái hậu biết chuyện, tìm tới các đại thần Bộ lễ hỏi chuyện phế hậu, định phế truất Từ Hy.
Chuyện này sau đó bị lộ ra ngoài, Từ An ngay đêm đó đột tử. Người ta đồn rằng, người ra tay hạ sát Từ An không ai khác chính là Từ Hy Thái hậu.
Có thể thấy, dù rằng các bậc đế vương đã nghĩ đủ mọi cách để ngăn chặn chuyện dâm loạn trong hậu cung, nhưng có vẻ không biện pháp nào hiệu quả được như họ mong muốn.
Theo Khỏe & Đẹp
Bí ẩn bên trong ngôi mộ cổ 4.400 tuổi ở Ai Cập Ngôi mộ 4.400 tuổi gần như còn nguyên vẹn của thầy tế Hoàng gia có thể tiết lộ nhiều điều về cuộc sống của người Ai Cập xưa. Một ngôi mộ 4.400 tuổi của một thầy tế Hoàng gia vừa được phát hiện ở Ai Cập trong tình trạng gần như vẫn còn nguyên vẹn. Thầy tế này tên là Wahtye và từng...